Đây là nhận định được đưa ra tại buổi trao đổi về nghiên cứu kinh tế thị trường Việt Nam, do Ngân hàng United Overseas Bank Việt Nam (UOB) tổ chức chiều ngày 20/8, tại Hà Nội.
Kinh tế sẽ tiếp tục tăng tốc nhờ sự bùng nổ của vốn FDI
Theo đánh giá tại "Báo cáo kinh tế Việt Nam – Điểm sáng của châu Á giữa bối cảnh căng thẳng thương mại" của UOB Việt Nam, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ là động lực chính thúc đẩy tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam trong thời gian trung đến dài hạn. Điều này có tiềm năng giúp mở rộng quy mô nền kinh tế Việt Nam ở mức từ 28,5 tỷ USD đến 62,1 tỷ USD, tương đương với tốc độ tăng trưởng kinh tế 7 - 16% hàng năm, cho đến năm 2030.
Nhờ vào sự bùng nổ của nhu cầu trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI), Việt Nam được kỳ vọng sẽ có những bước phát triển kinh tế đến 6,7% trong năm 2019, và là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới.
Theo nhận định của UOB Việt Nam, dự kiến kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục tăng tốc trong năm nay nhờ vào sự bùng nổ của nguồn vốn FDI và nhu cầu trong nước.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước được dự đoán sẽ duy trì lãi suất tái cấp vốn ở mức 6,25% trong năm nay. Với mức lãi suất huy động hiện tại, chính sách tiền tệ tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi giúp GDP tăng trưởng đều đặn và giữ được sự ổn định về giá.
Trình bày tại buổi trao đổi, ông Suan Teck Kin – Chuyên gia phân tích tài chính (CFA), Giám đốc điều hành Bộ phận Kinh tế toàn cầu và nghiên cứu thị trường của UOB tại Singapore cho rằng, chính sách tiền tệ ổn định của Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh phát triển.
“Để chuẩn bị cho những thay đổi đến từ các yếu tố tác động bên ngoài, việc duy trì chính sách là rất quan trọng, nhất là giữa bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ - Trung” - ông Suan Teck Kin nhấn mạnh.
Cũng theo ông Suan Teck Kin, thực tế cho thấy, thương chiến giữa Mỹ - Trung Quốc đã tạo nên biến động mạnh mẽ trong lĩnh vực thương mại toàn cầu. Điều đó đã khiến cho các nhà sản xuất phải cân nhắc mục tiêu hoạch định các chiến lược hiệu quả về mặt chi phí bằng cách di dời cơ sở sản xuất sang những địa điểm khác nhằm giảm thiểu tác động từ thuế quan thương mại.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam được đánh giá là một quốc gia lý tưởng cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu thế giới bởi sở hữu vị trí chiến lược để sản xuất và phân phối hàng hóa bằng đường bộ và đường biển.
Bên cạnh đó, phát biểu tại buổi gặp mặt, ông Manop Udomkerdmongkol - chuyên gia kinh tế tại ngân hàng UOB Thái Lan đánh giá thêm, ngoài lợi thế về mặt địa lý giáp với Trung Quốc, một trong những lợi thế cạnh tranh khác của Việt Nam trong việc thu hút nguồn vốn FDI là mức chi phí lao động tương đối thấp, đặc biệt khi so với Trung Quốc và Thái Lan. Hiện mức lương tối thiểu của Việt Nam chỉ bằng khoảng 38% đến 54% so với mức của Trung Quốc (hơn 330 USD mỗi tháng), Thái Lan (274 USD)...
Chất lượng các dự án đầu tư FDI tăng rõ rệt
Thêm vào đó, ông Manop Udomkerdmongkol cho biết thêm, mạng lưới các hiệp định thương mại tự do (FTA) cũng là một yếu tố thuận lợi của nước ta. Hiện tại, Việt Nam có tổng cộng 13 FTA đã được ký kết và ba hiệp định khác đang trong quá trình đàm phán. Điều này có nghĩa là nguồn hàng Việt Nam khi xuất khẩu đến các khu vực quan trọng trên thế giới sẽ được miễn thuế, tạo cơ hội cho việc di dời cơ sở sản xuất sang Việt Nam để mở rộng kinh doanh với các đối tác ở mức chi phí tối thiểu.
“Hơn nữa, các FTA sẽ giúp Việt Nam vừa thu hút dòng vốn FDI rót vào Việt Nam, vừa cải thiện chất lượng vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy, trong bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc, vốn FDI rót vào Việt Nam vẫn ở mức cao. Hiện vốn FDI tại Việt Nam đang trên đà vượt 20 tỷ USD với mức tăng trưởng 4,7%, nhờ vào việc các doanh nghiệp đa quốc gia chuyển hướng một số hoạt động vận hành để tránh mức thuế cao do xung đột thương mại Mỹ - Trung tạo nên” - ông Manop Udomkerdmongkol chia sẻ.
“Dựa vào mức tăng trưởng hiện tại, 2019 có khả năng sẽ là năm tốt nhất trong lịch sử kinh tế Việt Nam. Kể từ đầu năm đến tháng 7, Việt Nam đã ghi nhận 2.064 dự án mới, cao hơn 25% so với cùng kỳ năm 2018, là một năm kỷ lục về thu hút FDI đối với nền kinh tế Việt Nam” - ông Manop Udomkerdmongkol dự báo.
Theo số liệu được đưa ra tại buổi thảo luận, cho đến thời điểm này, Trung Quốc là quốc gia rót vốn FDI nhiều nhất vào Việt Nam, chiếm gần 25% tổng dòng vốn. Đây là cột mốc đánh dấu sự thay đổi hoàn toàn so với hai năm trước, khi mà dòng vốn này trước đây bị chi phối mạnh bởi Hàn Quốc và Nhật Bản (dựa trên dữ liệu của vốn đăng ký). Điều này cho thấy những căng thẳng thương mại Mỹ - Trung vào nửa đầu năm 2018 có sức ảnh hưởng rõ rệt tới các nhà sản xuất Trung Quốc.
Còn theo ông Suan Teck Kin, cho đến nay, hai trong số các quốc gia được hưởng lợi lớn nhất từ việc việc di dời các cơ sở sản xuất là Việt Nam và Malaysia, kể từ khi thương chiến Mỹ - Trung diễn ra mạnh mẽ trong nửa đầu năm 2018.
"Dựa trên nguồn vốn FDI trung bình rót vào từng quốc gia ASEAN, có thể thấy rằng Việt Nam và Malaysia là các quốc gia được hưởng lợi chính từ dòng vốn này. Trong mỗi quý kể từ quý III/2018, Việt Nam nhận được trung bình 4 tỷ USD, tăng lên 18% so với mức trung bình vào nửa đầu năm 2018, khi căng thẳng thương mại Mỹ - Trung vừa nổi lên. Malaysia cũng từng chứng kiến sự tăng trưởng tương tự, với bước nhảy vọt lên đến 60% trong nguồn vốn FDI được rót vào hàng quý trong giai đoạn từ quý III/2018 đến quý I/2019. Sự gia tăng này ít thấy hơn ở các nước ASEAN lớn khác như Thái Lan và Indonesia..." - ông Suan Teck Kin phân tích.
Mặt khác, xu hướng dịch chuyển của dòng vốn FDI vào các ngành công nghiệp sản xuất của Việt Nam cho thấy chất lượng đầu tư đã được cải thiện rõ rệt. Đến năm 2019, gần 75% vốn FDI rót vào Việt Nam là dành cho hoạt động sản xuất, các ngành công nghiệp ứng dụng công nghệ cao./.