Thị trường thế giới: Trong 15 ngày đầu tháng 7/2014, giá một số mặt hàng thiết yếu trên thị trường thế giới có xu hướng tăng như: giá xuất gạo của Việt Nam và Thái Lan, giá đường, giá dầu điêzen, dầu hỏa và xăng Ron 92; Giá LPG, giá dầu madut, dầu thô WTI và giá phân bón giảm; riêng giá thép ổn định. Cụ thể:
Giá chào bán gạo của Thái Lan, loại gạo 5% tấm giá phổ biến ở mức 375 – 415 USD/tấn, tăng khoảng 5-15 USD/tấn; loại 25% tấm giá ổn định ở mức 350 -360 USD/tấn; giá chào bán gạo của Việt Nam, loại 5% tấm dao động phổ biến ở mức 405-420 USD/tấn, tăng khoảng 5-10 USD/tấn, loại 25% tấm dao động ở mức 365-380 USD/tấn, tăng khoảng 5 -10 USD/tấn.
Tại New York, giá đường thô giao tháng 10/2014 khoảng 17,29-17,81 Uscent/Lb, tăng 0,25-0,62 Uscent/Lb; tại Luân Đôn, giá đường trắng giao tháng 8/2014 khoảng 453,5-470,1 USD/tấn, tăng khoảng 2,6 USD/tấn. Giá phân bón (giá FOB) trên hai thị trường Yuzhny và Baltic giảm từ 5-12 USD/tấn. Giá chào phôi thép tại thị trường Đông Nam Á dao động quanh mức 505-515 USD/tấn CFR.
Giá LPG trên thị trường thế giới tháng 7/2014 do Công ty Aramco của Ả Rập công bố là 830 USD/tấn, giảm 5 USD/tấn. Giá xăng dầu bình quân 15 ngày đầu tháng 7/2014 so với bình quân 15 ngày đầu tháng 6/2014 tăng, giảm tùy từng chủng loại: giá dầu Điêzen 0,05S, dầu hỏa, xăng Ron 92 tăng từ 0,48% đến 4,44%; trong khi đó giá dầu madut, dầu thô WTI giảm tương ứng -1,5% và -1,17%.
Thị trường trong nước: Trong 15 ngày đầu tháng 7/2014, giá một số mặt hàng có xu hướng ổn định như: giá đường, thép, phân bón và xi măng; giá xăng, dầu tăng; giá thóc gạo ổn định tại miền Bắc nhưng tăng tại miền Nam. Cụ thể:
Tại miền Bắc, giá thóc tẻ thường dao động phổ biến ở mức 6.000-6.500 đồng/kg, giá gạo tẻ thường dao động phổ biến ở mức 8.000-12.500 đồng/kg. Tại Nam Bộ, giá lúa dao động ở mức 5.400-6.050 đồng/kg, tăng khoảng 50 đồng/kg; gạo thành phẩm xuất khẩu loại 5% tấm mức giá trong khoảng 8.200-8.400 đồng/kg, tăng khoảng 325 đồng/kg; loại 25% tấm giá khoảng 7.450-7.600 đồng/kg, tăng khoảng 50 -200 đồng/kg.
Giá thực phẩm tươi sống 15 ngày đầu tháng 7/2014 có biến động không đều giữa các mặt hàng so với cùng kỳ tháng trước. Thịt lợn hơi: Miền Bắc giá phổ biến khoảng 44.000-46.000 đồng/kg, tăng 1.000 đồng/kg; Miền Nam giá phổ biến khoảng 47.000-54.000 đồng/kg, tăng 2.000-3.000 đồng/kg.
Thịt gà ta và gà công nghiệp làm sẵn có kiểm dịch: Miền Bắc giá phổ biến khoảng 115.000-120.000 đồng/kg, giảm 5.000 đồng/kg; Miền Nam giá phổ biến khoảng 110.000-115.000 đồng/kg, giảm 5.000 đồng/kg; gà công nghiệp làm sẵn ở mức 55.000-60.000 đồng/kg, ổn định. Giá một số loại rau, củ, quả nhìn chung ổn định, bắp cải 8.000-10.000 đồng/kg; khoai tây 12.000-15.000 đồng/kg; cà chua 14.000-15.000 đồng/kg.
Giá một số mặt hàng thuỷ hải sản như cá chép, tôm, mực ống… ổn định so với 15 ngày tháng 6/2014: Cá chép 70.000-80.000 đồng/kg; tôm sú 180.000-185.000 đồng/kg; cá quả 110.000-120.000 đồng/kg.
Giá bán lẻ đường trên thị trường ổn định so với cùng kỳ tháng 6/2014, hiện phổ biến ở mức 18.000 đồng/kg - 21.000 đồng/kg. Giá phân bón tại miền Bắc phổ biến khoảng 8.200-8.400 đồng/kg; tại miền Nam, mức giá phổ biến khoảng 8.000-8.400 đồng/kg.
Giá xi măng tại các nhà máy của Tổng công ty Công nghiệp Xi măng ổn định. Giá bán lẻ xi măng cũng ổn định, tại các tỉnh miền Bắc, miền Trung hiện phổ biến từ 1.050.000 -1.500.000 đồng/tấn; tại các tỉnh miền Nam phổ biến từ 1.460.000 -1.800.000 đồng/tấn. Giá thép tại nhà máy và giá bán lẻ trên thị trường ổn định, tại các tỉnh miền Bắc, miền Trung hiện phổ biến từ 1.050.000 -1.500.000 đồng/tấn; tại các tỉnh miền Nam phổ biến từ 1.460.000 -1.800.000 đồng/tấn.
Giá xăng dầu trong nước theo Công văn số 9154/BTC-QLG ngày 07/7/2014, được điều chỉnh tăng tối đa: 418 đồng/lít (xăng), 294 đồng/lít (dầu diezeel 0,05S), 413 đồng/lít (dầu hỏa), 137 đồng/kg (dầu madut); đồng thời cho phép tăng sử dụng Quỹ Bình ổn giá đối với mặt hàng xăng (từ 300 đồng/lít lên mức 500 đồng/lít), và tiếp tục sử dụng quỹ BOG 300 đồng/kg đối với dầu madut. Giá LPG được điều chỉnh tăng giảm, tùy theo từng doanh nghiệp, tùy từng khu vực.
Giá bán vàng 99,99% tại các công ty kinh doanh vàng bạc Nhà nước tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh dao động lần lượt ở mức 3,684-3,682 triệu đồng/chỉ (đầu tháng), đến giữa tháng, giá vàng tăng ở mức 3,696-3,694 triệu đồng/chỉ với cùng mức tăng 12.000 đồng/chỉ.
Tỷ giá bình quân liên ngân hàng tiếp tục ổn định ở mức 21.246 đồng/USD (từ ngày 19/6). Tỷ giá Đôla Mỹ trên thị trường tự do giảm về mức 21.210-21.230 đồng/USD. Tại ngân hàng thương mại, tỷ giá Đôla Mỹ đầu tháng được niêm yết ở mức mua vào – bán ra 21.300-21.360 đồng/USD, đến giữa tháng, tỷ giá giảm 120-130 đồng/USD ở hai chiều mua vào – bán ra xuống mức 21.180-21.230 đồng/USD.