Tuy nhiên, trước yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ hơn khu vực sự nghiệp công, tháo gỡ các rào cản để khu vực này phát triển mạnh mẽ hơn, góp phần thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng bền vững, đã đặt ra đòi hỏi sửa đổi, hoàn thiện các quy định về cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập.
Công cuộc đổi mới khu vực sự nghiệp công lập đã được triển khai từ hơn 10 năm qua, bắt đẩu với việc ban hành Nghị định số 10 năm 2002, tiếp đến là Nghị định số 43 năm 2006.
Sau hơn 7 năm thực hiện Nghị định 43 cho thấy, việc trao quyền tự chủ cho đơn vị sự nghiệp công lập đã góp phần nâng cao số lượng và chất lượng dịch vụ công; tạo điều kiện cho người dân có thêm cơ hội được lựa chọn, tiếp cận với các dịch vụ có chất lượng ngày càng cao; thu nhập của người lao động từng bước được cải thiện.
Mặc dù đã có những tiến bộ nhất định, nhưng quá trình thực hiện Nghị định 43 cũng cho thấy, các đơn vị sự nghiệp cũng chưa được giao quyền tự chủ một cách đầy đủ, từ đó hạn chế các đơn vị sự nghiệp công lập trong việc phát triển mở rộng, nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công.
Bởi vậy, Chính phủ đã giao Bộ Tài chính xây dựng Nghị định khung sửa đổi Nghị định 43 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. Trên cơ sở Nghị đinh khung này, các Bộ quản lý ngành được giao xây dựng, sửa đổi quy định về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp trong 7 lĩnh vực cụ thể, như giáo dục đào tạo, y tế, dạy nghề, văn hóa,…
Quan điểm đặt ra khi xây dựng nghị định khung lần này là đổi mới mạnh mẽ, toàn diện cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, vừa tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích, vừa đặt ra các yêu cầu thúc ép các đơn vị này chủ động, sáng tạo để phát triển, vươn lên.
Theo đó, Nghị định khung đã sửa đổi, bổ sung tổng thể các quy định có liên quan đến quyền tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập, từ tự chủ về thực hiện nghiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự, đến tự chủ về tài chính.
Vấn đề giá, phí dịch vụ là một trong những vấn đề hết sức khó khăn trong tổ chức thực hiện, nhưng rất quan trọng giúp cho các đơn vị sự nghiệp công lập có thể tiến tới hạch toán đầy đủ, từ đó chuyển sang cơ chế tự chủ ở mức cao hơn, từ đó nâng cao số lượng, chất lượng dịch vụ công một cách bền vững; đồng thời, đây cũng là điểm quan trọng thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng, tạo điều kiện thu hút thêm các nhà đầu tư từ các thành phần kinh tế khác; đó là vấn đề giá, phí dịch vụ sự nghiệp công. Đây cũng là nội dung mà Nghị định 43 chưa giải quyết.
Để giải quyết bất hợp lý trên, dự thảo nghị định đã bổ sung các quy định về giá, phí và lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công, danh mục dịch vụ sự nghiệp công. Theo đó, đối với loại dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí NSNN thì Nhà nước ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công và Nhà nước định giá ; đối với loại hình dịch vụ sự nghiệp công khác, đơn vị được tự xác định giá dịch theo nguyên tắc thị trường.
Đáng chú ý dự thảo Nghị định cũng quy định nguyên tắc: trong quá trình điều chỉnh giá, Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các đối tượng chính sách, người nghèo và hỗ trợ đối với các đơn vị sự nghiệp công trong trường hợp cần thiết. Vấn đề này chưa được đặt ra trong Nghị định 43.
Nghị định khung cũng quy định các bộ, ngành, địa phương phải chủ động tính toán, xây dựng lộ trình để năm 2015 tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp (chưa tính chi phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định); năm 2016 tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý (chưa tính chi phí khấu hao tài sản cố định); năm 2018 tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp và chi phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định. Đối với các đơn vị có điều kiện vươn lên nhanh hơn, Nghị định mới cho phép được thực hiện trước lộ trình giá.
Đồng thời với quá trình điều chỉnh giá, phí dịch vụ công, Nhà nước sẽ hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng chính sách (người có công, người nghèo...) nhằm đảm bảo cho các đối tượng này có thể tiếp cận và sử dụng các dịch vụ sự nghiệp công cơ bản.
Nhà nước thực hiện cơ cấu lại chi NSNN đối với lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công theo hướng đẩy mạnh đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cho các đơn vị, gắn việc hỗ trợ với số lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ công. Theo đó sẽ từng bước thu hẹp đối tượng, phạm vi các đơn vị sự nghiệp công lập được hỗ trợ chi thường xuyên từ NSNN so với hiện nay; chỉ có dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN mới được Nhà nước hỗ trợ kinh phí.
Việc đổi mới quản lý khu vực sự nghiệp công, trong đó có việc tăng cường trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị này, khuyến khích các đơn vị có điều kiện vươn lên tự chủ ở mức cao, giảm dần nhu cầu hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, từ đó Nhà nước có thể dành thêm nguồn chăm lo tốt hơn cho các đối tượng chính sách, các đối tượng hộ nghèo, bảo trợ xã hội là vấn đề cấp thiết, cần sớm triển khai. Song lộ trình, bước đi, mức độ thành công của quá trình này phụ thuộc rất nhiều vào sự quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, lãnh đạo các Bộ, ngành, chính quyền các địa phương và đặc biệt là phải được sự đồng thuận của xã hội./.