Thuế tối thiểu toàn cầu – Ứng xử của các nước trong bối cảnh hiện tại và khuyến nghị đối với Việt Nam

12:31 | 18/02/2023 Print
(TBTCO) - Chính phủ các nước đầu tư và nhận đầu tư đều đã và đang có những động thái quyết liệt trong việc cân nhắc và đưa ra các chính sách liên quan đến thuế tối thiểu toàn cầu. Việt Nam cần tiến hành việc chuẩn bị về mọi mặt ngay từ bây giờ cho sự hiện diện thực tế của Trụ cột 2, trong bối cảnh nhiều quốc gia sẽ áp dụng chính sách về thuế tối thiểu toàn cầu ngay từ năm 2024.

Thuế tối thiểu toàn cầu – Bối cảnh hiện tại

Chính phủ các nước đầu tư và nhận đầu tư đều đã và đang có những động thái quyết liệt trong việc cân nhắc và đưa ra các chính sách liên quan đến thuế tối thiểu toàn cầu. Gần đây, vào ngày 15/12/2022, Liên minh Châu Âu (EU) đã chính thức thông qua kế hoạch áp dụng thuế suất tối thiểu 15% từ 2024.

Thuế tối thiểu toàn cầu – Ứng xử của các nước trong bối cảnh hiện tại và khuyến nghị đối với Việt Nam
Chính phủ các nước đầu tư và nhận đầu tư đều đã và đang có những động thái quyết liệt trong việc cân nhắc và đưa ra các chính sách liên quan đến thuế tối thiểu toàn cầu.

Quốc hội Hàn Quốc cũng đã thông qua Đạo luật điều chỉnh thuế, trong đó sẽ áp dụng cơ chế thuế tối thiểu toàn cầu từ 2024. Chính phủ Nhật Bản cũng đã thông báo Dự thảo cải cách thuế, tiến tới việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu từ năm tài chính 2024 và sẽ trình Quốc hội phê duyệt. Đây là các quốc gia có nguồn vốn đầu tư nước ngoài lớn vào Việt Nam và do đó, việc chính thức áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu sẽ có nhiều tác động tới các doanh nghiệp có vốn đầu tư ngoài (FDI) tại Việt Nam, và tác động đã rất cận kề với thời gian áp dụng của các quốc gia khác dự kiến từ năm tài chính 2024.

Bên cạnh đó, Malaysia hay Hong Kong cũng đang rất gần với việc chính thức áp dụng chính sách Thuế tối thiểu toàn cầu từ 2024. Gần đây nhất, vào ngày 14/2/2023, Singapore cũng đã thông báo kế hoạch dự kiến về việc áp dụng cơ chế thuế tối thiểu toàn cầu từ 2025.

Tác động đối với Việt Nam

Tác động của chính sách thuế tối thiểu toàn cầu đến Việt Nam đã là rất rõ ràng và cấp bách, thể hiện rõ nhất trong 2 lĩnh vực: (i) thuế và (ii) thu hút đầu tư nước ngoài.

Về thuế, trong trường hợp Việt Nam không có những hành động ngay hoặc chậm trễ trong việc triển khai thuế tối thiểu toàn cầu, Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội giành quyền đánh thuế, vì khi đó các quốc gia đầu tư thuộc khối EU, Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia khác sẽ thực hiện thu thuế bổ sung theo các nguyên tắc Trụ cột 2, nhiều khả năng bắt đầu từ năm 2024. Ngoài ra, Việt Nam cũng có thể không thu được phần thuế bổ sung, nếu phát sinh của các tập đoàn của Việt Nam có đầu tư ra nước ngoài.

Bên cạnh đó, thuế tối thiểu toàn cầu cũng sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài của các chính sách ưu đãi thuế hiện tại của Việt Nam cho các tập đoàn đa quốc gia thuộc phạm vi áp dụng. Nếu Việt Nam không có những cải cách hợp lý và kịp thời về chính sách ưu đãi thuế, trong trường hợp các đối thủ cạnh tranh là các quốc gia đang thu hút và nhận đầu tư nước ngoài cân nhắc các biện pháp và chính sách ưu đãi đầu tư thuận lợi để thích ứng với thuế tối thiểu toàn cầu, Việt Nam có thể bị bỏ lại phía sau trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.

Khi đó, không chỉ các doanh nghiệp đa quốc gia lớn mà cả các doanh nghiệp vệ tinh, doanh nghiệp phụ trợ thuộc chuỗi giá trị có thể chuyển dịch đầu tư từ Việt Nam sang các quốc gia khác hoặc không tiếp tục mở rộng đầu tư tại Việt Nam. Những bước đi chủ động gần đây của Malaysia và Singapore trong việc dự kiến áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu và cơ chế Thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn (“QDMTT - Qualified Domestic Minimum Top-up Tax”) là những “tín hiệu cảnh báo” ban đầu cho Việt Nam.

Giải pháp trong bối cảnh hiện tại

Thứ nhất, để bảo vệ nguồn thu thuế, Việt Nam có thể cân nhắc giải pháp trước mắt về việc áp dụng cơ chế thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn - QDMTT để giành quyền thu phần thuế bổ sung trước các quốc gia khác.

QDMTT có thể hiểu đơn giản là một cơ chế nội địa trong đó việc tính toán lợi nhuận thặng dư (“excess profits”) và thuế tối thiểu được áp dụng tương đương với các quy định tại Trụ cột 2 theo hướng dẫn của OECD. Đây là biện pháp mà một số quốc gia như Hong Kong, Singapore, Malaysia đang cân nhắc và nhiều khả năng sẽ áp dụng.

Mặc dù được coi là biện pháp phản ứng nhanh trong bối cảnh Trụ cột 2, việc áp dụng QDMTT cũng cần được cân nhắc thận trọng trên nhiều yếu tố. Đầu tiên, không phải doanh nghiệp nào tại Việt Nam cũng nằm trong phạm vi áp dụng của Trụ cột 2 mà chỉ các doanh nghiệp thuộc tập đoàn đa quốc gia có quy mô doanh thu hợp nhất toàn cầu hàng năm trên 750 triệu EUR, theo đó việc áp dụng QDMTT cho tất cả các doanh nghiệp có thể gây tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp không thuộc phạm vi Trụ cột 2 mà đang được hưởng các chính sách ưu đãi hiện hành tại Việt Nam.

Ngoài ra, nếu áp dụng QDMTT, việc tính toán Thu nhập GloBE (GloBE income) cũng như thuế được bao gồm (Covered tax) có thể sẽ rất phức tạp và tốn kém, do đó cần được cân nhắc giữa lợi ích mà QDMTT đem lại so với chi phí quản lý hành chính có thể phải bỏ ra. Việt Nam có thể áp dụng các cơ chế thuế tối thiểu nội địa khác mà không phải thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn (ví dụ áp dụng trực tiếp thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức 15% mà không áp dụng cơ chế tính toán như của QDMTT). Tuy nhiên nếu áp dụng cơ chế thuế tối thiểu nội địa khác QDMTT, do các nguyên tắc tính toán không tương đồng, các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng có thể phải nộp thêm thuế tại Việt Nam đồng thời vẫn phải nộp thuế bổ sung tại quốc gia khác, gây khó khăn trong việc tính toán và kê khai thuế.

Thứ hai, liên quan đến việc hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực đến việc thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam nên ban hành các cơ chế, chính sách ưu đãi theo chi phí nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp đang áp dụng ưu đãi thuế chịu tác động từ Trụ cột 2. Hiện tại, các chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam chưa đa dạng, chỉ tập trung chủ yếu vào các ưu đãi theo thu nhập (income-based incentives) như ưu đãi về thuế suất và miễn giảm thuế, chưa phổ biến các ưu đãi theo chi phí (expenditure-based incentives), đặc biệt là hình thức ưu đãi trợ cấp bằng tiền (cash grants).

Ưu đãi theo thu nhập là hình thức ưu đãi tương đối phổ biến tại các quốc gia đang phát triển, trong khi đó, các quốc gia phát triển có xu hướng phụ thuộc nhiều hơn vào các ưu đãi thuế dựa trên cơ sở chi phí như khấu hao nhanh, trợ cấp đầu tư hoặc giảm trừ thuế (tax credits) hơn là miễn giảm thuế thu nhập trên diện rộng, theo báo cáo của OECD.

Ưu đãi theo thu nhập có ưu điểm là dễ quản lý vì thông thường sẽ được kê khai khi quyết toán thuế cuối năm, đồng thời không phát sinh các khoản phải trả trước từ ngân sách, và dễ thu hút các dự án đầu tư mới, phát sinh lợi nhuận sớm ở giai đoạn đầu. Tuy nhiên, nhược điểm của ưu đãi theo thu nhập là sẽ phát sinh các trường hợp chuyển giá, chuyển dịch lợi nhuận sang các quốc gia có ưu đãi theo lợi nhuận lớn, đồng thời việc ưu đãi theo lợi nhuận mặc dù có thể thu hút các dự án đầu tư mới và lợi nhuận lớn trong giai đoạn đầu, nhưng có thể không hấp dẫn với các dự án đầu tư mở rộng do chính sách ưu đãi với dự án đầu tư mở rộng có thể thấp hơn so với đầu tư mới.

Ngoài ra, ưu đãi theo lợi nhuận thông thường sẽ cho một giai đoạn nhất định (ví dụ tại Việt Nam, ưu đãi miễn thuế có thể trong vòng 2 năm hoặc 4 năm, giảm thuế trong vòng 4 năm hoặc 9 năm, v.v..), theo đó có thể phát sinh các trường hợp doanh nghiệp đóng cửa dự án khi đã hết giai đoạn ưu đãi để mở dự án mới, hoặc chuyển đầu tư sang quốc gia khác nhằm hưởng ưu đãi đầu tư mới. Theo đó ưu đãi theo thu nhập về mặt dài hạn sẽ có nhiều hạn chế, đặc biệt trong bối cảnh Trụ cột 2 được áp dụng thì các lợi ích về ưu đãi theo lợi nhuận sẽ giảm đi đáng kể đối với các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng.

Dưới sự tác động của thuế tối thiểu toàn cầu, các giải pháp liên quan đến ưu đãi theo chi phí, đặc biệt là ưu đãi bằng tiền (cash grant) nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng đang được các quốc gia nghiên cứu và cân nhắc. Ưu đãi bằng tiền có thể theo diện hỗ trợ một phần chi phí của nhà đầu tư vào các cơ sở vật chất máy móc nhà xưởng, nhân lực, hoặc đầu tư vào các hoạt động chất xám như nghiên cứu và phát triển, v.v… Chính phủ một số quốc gia như Nhật Bản, Singapore, Đài Loan, Mexico hay các quốc gia Châu Âu như Bỉ, Đức, Anh, Ý, Hy Lạp, Hà Lan… đã và đang cung cấp các khoản ưu đãi bằng tiền mặt cho các doanh nghiệp thực hiện các dự án trong một số lĩnh vực nhất định như nghiên cứu và phát triển, đổi mới công nghệ, bảo vệ và phát triển môi trường bền vững, phát triển năng lượng mới, sử dụng năng lượng hiệu quả, v.v… Đây được đánh giá là một biện pháp khá hiệu quả trong việc thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực ưu tiên.

Thuế tối thiểu toàn cầu – Ứng xử của các nước trong bối cảnh hiện tại và khuyến nghị đối với Việt Nam
Việc chính thức áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu sẽ có nhiều tác động tới các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, và tác động đã rất cận kề với thời gian áp dụng của các quốc gia khác dự kiến từ năm tài chính 2024.

Xét theo bối cảnh tại Việt Nam, việc cân nhắc ưu đãi bằng tiền nên được xem xét trên cả khía cạnh ưu điểm và nhược điểm.

Về mặt ưu điểm, trước hết loại hình ưu đãi này có tác dụng hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi thuế tối thiểu toàn cầu. Tại Việt Nam, nhiều doanh nghiệp thuộc các tập đoàn đa quốc gia lớn, chịu ảnh hưởng của Trụ cột 2, đang được hưởng các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp do đáp ứng điều kiện ưu đãi về đầu tư trong địa bàn ưu tiên, lĩnh vực ưu tiên, hoặc quy mô đầu tư lớn, với mức thuế suất áp dụng thấp hơn nhiều so với mức thuế tối thiểu toàn cầu 15%. Các ưu đãi này sẽ không còn nhiều tác dụng khi Trụ cột 2 áp dụng do phát sinh thêm thuế phải nộp bổ sung, cộng thêm với việc doanh nghiệp thường phải bỏ ra chi phí đầu tư lớn ở giai đoạn đầu cho cơ sở vật chất, nhân lực, v.v.. sẽ gây bất lợi lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư tại Việt Nam. Do đó, việc áp dụng cơ chế ưu đãi bằng tiền nhằm hỗ trợ một phần chi phí đầu tư sẽ giúp doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng, khuyến khích các hoạt động đầu tư thực chất và mang tính dài hạn.

Ngoài ra, theo Quy tắc mẫu của OECD đối với Trụ cột 2, doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi từ các khoản giảm trừ thu nhập dựa trên thực chất (“SBIE” – Substance-based income exclusion), tức là doanh nghiệp sẽ được trừ một tỷ lệ nhất định theo giá trị còn lại của tài sản hữu hình và chi phí trả lương khi tính toán thuế phải nộp bổ sung. Việc được hỗ trợ bằng tiền sẽ thúc đẩy các hoạt động đầu tư thực chất này của doanh nghiệp và theo đó, làm giảm số thuế phải nộp bổ sung theo công thức nêu trên.

Ngoài lợi ích cho doanh nghiệp, cơ chế ưu đãi bằng tiền cũng sẽ có lợi cho Việt Nam trên nhiều khía cạnh. Đầu tiên, cơ chế này sẽ giúp đa dạng hóa các chính sách ưu đãi đầu tư hiện tại, giúp môi trường đầu tư của Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn để thu hút các nhà đầu tư lớn. Hình thức ưu đãi bằng tiền cũng sẽ giúp tạo ra cơ sở kinh tế ổn định, hạn chế tình trạng chuyển dịch lợi nhuận hoặc đầu tư ngắn hạn như đối với ưu đãi theo lợi nhuận. Bên cạnh đó, mặc dù các khoản ưu đãi bằng tiền có thể sẽ phát sinh việc phải trả trước từ ngân sách, nhưng sẽ có ưu điểm là dễ ước tính hơn dựa trên giá trị đầu tư, không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, ngoài ra có thể được cân nhắc thiết kế theo hướng chi trả nhiều lần để phù hợp cho việc hoạch định ngân sách.

Đáng chú ý là việc áp dụng ưu đãi bằng tiền cũng đang và sẽ được cân nhắc bởi các quốc gia tương tự Việt Nam, ví dụ như Thái Lan, Malaysia, trong việc tiếp tục thu hút và giữ chân các nhà đầu tư nước ngoài, do đó sẽ ảnh hưởng bất lợi đến môi trường thu hút đầu tư của Việt Nam trong trường hợp các chính sách hỗ trợ bằng tiền này được triển khai.

Về hạn chế, ưu đãi bằng tiền cũng cần được xem xét thấu đáo từ một số góc độ. Trước hết, để áp dụng biện pháp này một cách hợp lý cũng đòi hỏi điều kiện về ngân sách quốc gia. Đây là quan ngại chính của các quốc gia đang phát triển do vấn đề ngân sách hạn chế và khó khăn trong việc phát sinh chi trả trước. Tuy nhiên, nếu cải cách hệ thống thuế hợp lý để tăng nguồn thu từ thuế tối thiểu toàn cầu, Việt Nam sẽ có thể tận dụng chính nguồn thu này để thêm ngân sách hỗ trợ cho cơ chế ưu đãi bằng tiền. Một vấn đề khác được đặt ra là việc ban hành cơ chế ưu đãi mới có thể tăng thêm các thủ tục hành chính về mặt quản lý, ví dụ như các thủ tục xin áp dụng ưu đãi, thủ tục xét duyệt, quản lý hành chính, cũng như hậu kiểm để đảm bảo cơ chế ưu đãi được thực hiện hợp lý, đúng mục tiêu, không phát sinh thất thoát.

Ngoài ra, về mặt kỹ thuật, cơ chế ưu đãi bằng tiền cũng cần được nghiên cứu kỹ càng khi đối chiếu với các quy định của OECD. Ví dụ, theo quy định của OECD, một trong các điều kiện để áp dụng cơ chế QDMTT là quốc gia áp dụng phải thực hiện và quản lý theo cách phù hợp với quy định theo quy tắc Trụ cột 2 của OECD và không cung cấp bất kỳ lợi ích nào liên quan đến các quy tắc đó. Theo đó, việc ban hành chính sách ưu đãi bằng tiền có làm ảnh hưởng đến việc áp dụng QDMTT (nếu Việt Nam lựa chọn phương án này) hay không cần được cân nhắc cẩn trọng. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần tham khảo và nghiên cứu quy định của OECD về tác động cụ thể của ưu đãi bằng tiền lên việc tính toán thuế suất hiệu quả của doanh nghiệp theo công thức của OECD sẽ như thế nào.

Khuyến nghị với Việt Nam

Thuế tối thiểu toàn cầu đã đến rất gần và Việt Nam cần sớm cân nhắc và thực hiện các hành động quyết liệt để không bị bỏ lại phía sau. Deloitte Việt Nam xin đưa ra một số khuyến nghị như sau, và sẽ tiếp tục cùng trao đổi và đồng hành với các cơ quan Chính phủ trong quá trình xây dựng giải pháp chính sách công bằng và hợp lý, giúp bảo vệ nguồn thu và tiếp tục thu hút đầu tư tại Việt Nam.

Thứ nhất, Việt Nam cần tiến hành việc chuẩn bị về mọi mặt ngay từ bây giờ cho sự hiện diện thực tế của Trụ cột 2, trong bối cảnh nhiều quốc gia sẽ áp dụng chính sách về thuế tối thiểu toàn cầu ngay từ năm 2024. Các chính sách ứng phó với tác động của Trụ cột 2 nên được xây dựng trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Trong ngắn hạn, việc có áp dụng cơ chế thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn QDMTT để giành quyền thu thuế nên được cân nhắc sớm, đối chiếu với quy định của OECD cũng như vấn đề về lợi ích và chi phí nếu thực hiện. Trong dài hạn, hệ thống thuế cùng với các ưu đãi thuế cũng cần được xem xét cải cách nhằm hạn chế tác động tiêu cực của Trụ cột 2, đảm bảo thu hút đầu tư thực chất, hạn chế các hoạt động làm xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận.

Chúng tôi cũng lưu ý rằng, việc ban hành bất cứ chính sách hoặc cơ chế mới nào cũng cần được xem xét cẩn trọng để đảm bảo tính công bằng cho các doanh nghiệp thuộc phạm vi và không thuộc phạm vi điều chỉnh của Trụ cột 2, đảm bảo thống nhất với quy định về bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư theo Luật Đầu tư hiện tại, cũng như không vi phạm các cam kết quốc tế và quy định của OECD mà Việt Nam đang tham gia. Chúng tôi hiểu rằng, Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế cũng sẽ sớm có những đánh giá tác động để chuẩn bị cho các thay đổi chính sách phù hợp tới đây.

Thứ hai, đối với việc hỗ trợ các doanh nghiệp đa quốc gia bị ảnh hưởng bởi Trụ cột 2, các hình thức ưu đãi đầu tư mới dựa trên chi phí, đặc biệt là ưu đãi bằng tiền, nên được cân nhắc với những ưu điểm nhất định so với hình thức đầu tư dựa trên thu nhập. Việt Nam nên cân nhắc cải cách hệ thống ưu đãi thuế để phù hợp hơn trong tình hình mới, song song với việc tham khảo, lấy ý kiến tư vấn OECD, cũng như các chính sách đang được thực hiện bởi các quốc gia khác.

Cuối cùng, với sự thành lập Tổ công tác đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ về nghiên cứu và đề xuất các giải pháp liên quan đến thuế suất tối thiểu toàn cầu của OECD, nên sớm triển khai đánh giá tác động và nghiên cứu, xây dựng các giải pháp, cơ chế cũng như khung pháp lý đối với việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu tại Việt Nam để đảm bảo sự ổn định và duy trì tính cạnh tranh, hấp dẫn của môi trường đầu tư./.

Thomas McClelland – Phó Tổng Giám đốc phụ trách Dịch vụ tư vấn thuế, Deloitte Việt Nam; Vũ Thu Ngà – Phó Tổng Giám đốc Dịch vụ tư vấn thuế, Deloitte Việt Nam

© Thời báo Tài chính Việt Nam