Kinh tế số dần định hình rõ nét trong các văn bản và thực tiễn cuộc sống

14:38 | 13/03/2021 Print
Lâu nay, chúng ta nghe nói rất nhiều đến kinh tế số nhưng chưa có cơ quan quản lý chuyên biệt mà nằm rải rác tại các bộ, ngành. Trong khi kinh tế số là kết nối liên ngành. Phóng viên TBTCVN đã có cuộc trò chuyện cùng Viện trưởng Viện Công nghệ thông tin và Kinh tế số Nguyễn Trung Tuấn.

PV: Thưa ông, để Kinh tế số hoạt động hiệu quả, chúng ta có cần phải thành lập cơ quan chuyên ngành Kinh tế số trực thuộc Chính phủ?

Ông Nguyễn Trung Tuấn: Để hoạt động hiệu quả, chúng ta cần sớm thành lập cơ quan chuyên ngành trực thuộc Chính phủ quản lý kinh tế số. Cần tập hợp được đội ngũ nhà quản lý, chuyên gia giỏi, có am hiểu, kinh nghiệm trong lĩnh vực này để dẫn dắt phát triển.

Điều này đã được thể hiện rõ trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, mục tiêu đến năm 2025 kinh tế số đạt khoảng 20% GDP; đến năm 2030 đạt khoảng 30% GDP, đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới về Chính phủ điện tử, kinh tế số. Theo các chuyên gia, để thúc đẩy phát triển kinh tế số, ưu tiên hàng đầu là phải hoàn thiện hành lang pháp lý.

Nếu như giai đoạn trước, chúng ta chỉ nói đến phát triển kinh tế tri thức thì trong các dự thảo Văn kiện Đại hội lần này đều nhấn mạnh phát triển kinh tế số, xã hội số. Đây là bước tiến rất quan trọng, cho thấy chúng ta đã có nhận thức rõ ràng để phát triển thực tiễn hơn, cụ thể hơn, phù hợp xu thế tất yếu của thế giới, chủ động đón làn sóng Cách mạng Công nghiệp 4.0.

Trên thực tế, không phải đến bây giờ, phát triển kinh tế số mới được đặt ra. Từ năm 2014, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 36-NQ/TW về đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.

Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản có có liên quan, như Nghị quyết 41/NQ-CP năm 2016 về chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin… Gần đây, ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 52/NQ-TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, đặt mục tiêu đến năm 2025 kinh tế số sẽ đạt 20% GDP…

Kinh tế số đã dần dần được định hình rõ nét hơn không chỉ trong các văn bản mà cả thực tiễn cuộc sống. Minh chứng là hạ tầng đang dần hoàn thiện, gần đây nhất đã vận hành mạng 5G. Thương mại điện tử bùng nổ, đặc biệt trong năm 2020 khi chịu tác động của Covid-19. Khảo sát của Nielsen cho thấy, trong năm 2020 có tới 53% người dùng ví điện tử thanh toán khi mua hàng qua mạng, tăng 28% so với năm 2019. Bên cạnh đó, đã xuất hiện rất nhiều hình thức học tập, khám chữa bệnh từ xa dựa trên nền tảng của chuyển đổi số...

Tuy nhiên, việc phát triển kinh tế số ở Việt Nam vẫn đang đối mặt với rất nhiều khó khăn. Đó là sự mất cân bằng giữa các lĩnh vực, vùng miền; xuất hiện những đối tượng yếu thế ở vùng sâu vùng xa, khó khăn trong tiếp cận kinh tế số. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa trên môi trường mạng đặt ra những thách thức trong bảo vệ thông tin, mất cắp dữ liệu hay nói rộng ra đó là vấn đề an ninh và an toàn thông tin; các doanh nghiệp khởi nghiệp (startup) không đủ nguồn lực chống chịu trước làn sóng công nghệ, không trụ lại được hoặc bị thâu tóm - đó là một “cuộc chơi’ hết sức khốc liệt…
t
Ông Nguyễn Trung Tuấn phát biểu tại hội thảo về Kinh tế số. Ảnh: Tuấn Anh

PV: Thưa ông, để thúc đẩy kinh tế số, trước tiên là hoàn thiện hành lang pháp lý bởi hiện mới đang ở bước đầu, còn thiếu rất nhiều. Vậy chúng ta cần có luật về kinh tế số?

Ông Nguyễn Trung Tuấn: Để thúc đẩy kinh tế số, trước tiên là hành lang pháp lý bởi hiện mới đang ở bước đầu, còn thiếu rất nhiều. Việc xây dựng, hoàn thiện hành lang pháp lý cho kinh tế số là vấn đề không đơn giản vì đây là lĩnh vực liên ngành.

Do vậy, cần ưu tiên xây dựng hành lang pháp lý, bảo đảm tính bao quát, năng động, rộng mở, khuyến khích doanh nghiệp và cá nhân sáng tạo, ứng dụng kết quả của tri thức mà người ta phát triển được để vận hành doanh nghiệp hoặc hệ thống của họ.

Thứ hai, phải đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, gồm nguồn nhân lực trực tiếp liên quan hạ tầng như công nghệ thông tin và nguồn nhân lực để thích ứng với kinh tế số có yếu tố liên ngành mà trong đó kỹ năng công nghệ được chú trọng. Muốn có kinh tế số, xã hội số phải có công dân số. Công dân số phải hiểu, chịu trách nhiệm với hành vi của mình trên không gian số đó, đồng nghĩa có hành lang pháp lý rõ ràng, cụ thể để họ thực hiện.

Các dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để phát triển kinh tế số, xã hội số. Phát triển mạnh hạ tầng số, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, vùng, địa phương kết nối đồng bộ, thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số. Thực hiện chuyển đổi số quốc gia một cách toàn diện…

Phải đầu tư và xây dựng kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin mạnh mẽ. Gần đây, Việt Nam đã có bước tiến về mạng 5G, song kinh tế số có tính kết nối và chia sẻ mạnh mẽ, phải bảo đảm hạ tầng truyền dẫn, kết nối vận hành trơn tru; gắn kinh tế số với các nền tảng công nghệ như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI)… và các thành tựu khác của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra.

Xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo hiệu quả tại các doanh nghiệp, các trung tâm nghiên cứu cũng như trường đại học để hỗ trợ phát triển khởi nghiệp. Có chương trình hành động cụ thể cho từng ngành, từng lĩnh vực để thực hiện Chiến lược chuyển đổi số quốc gia; đẩy mạnh thực hiện khung kiến trúc Chính phủ điện tử ở tất cả các bộ ngành, địa phương…

Việc đầu tư hạ tầng phát triển kinh tế số là cần thiết, song Nhà nước cần có một lộ trình đầu tư phù hợp và cần huy động sự tham gia đầu tư xứng đáng từ cộng đồng doanh nghiệp.

PV: Thưa ông, nhân lực nghiệp vụ đóng vai trò quyết định sự thành công phát triển kinh tế số của các tổ chức, doanh nghiệp. Việc hình thành từng bước đội ngũ chuyên gia kinh tế số có tầm khu vực và thế giới để tư vấn cho Quốc hội và Chính phủ đóng vai trò như thế nào?

Ông Nguyễn Trung Tuấn: Nhân lực nghiệp vụ đóng vai trò quyết định sự thành công phát triển kinh tế số của các tổ chức, doanh nghiệp, bởi họ sẽ “đặt hàng” và phối hợp với nhân viên kỹ thuật trong triển khai các dự án kinh tế số. Vì vậy cần nâng cao nhận thức, kiến thức và kỹ năng kinh tế số cho đội ngũ quản lý (nhất là quản lý nhà nước). Qua đó, giúp họ hiểu lợi thế cũng như thách thức triển khai sáng kiến kinh tế số trong khu vực của mình. Hình thành từng bước đội ngũ chuyên gia kinh tế số có tầm khu vực và thế giới để tư vấn cho Quốc hội và Chính phủ.

Ngoài ra, để phát triển kinh tế số cần thiết lập hệ sinh thái số, tạo kết nối doanh nghiệp - doanh nghiệp và doanh nghiệp – cơ quan quản lý. Chừng nào chưa có hệ sinh thái số, chừng đó kinh tế số chưa thể phát triển hiệu quả.

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong khu vực, thu hút đáng kể vốn đầu tư trung hạn từ nước ngoài (FDI). Để khuyến khích tăng trưởng, chính phủ đã tập trung vào việc thúc đẩy đổi mới và áp dụng công nghệ tiên tiến với các chính sách hỗ trợ nhằm đưa Việt Nam trở thành quốc gia không tiền mặt, tăng cường thanh toán số giữa người tiêu dùng, đơn vị kinh doanh và doanh nghiệp trên toàn quốc.

Gần đây nhất, Thủ tưởng Chính phủ đã ra Quyết định số 316/QĐ-TTg ngày 09/03/2021 về việc Phê duyệt triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ, đây là một bước tiến lớn trong lộ trình hướng đến thanh toán không dùng tiền mặt, thúc đẩy nhanh hơn nữa sự phát triển của kinh tế số và là một hành động đưa Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thức XIII vào cuộc sống.

PV: Xin cảm ơn ông!

Lan Hương

Lan Hương

© Thời báo Tài chính Việt Nam