Phát triển hệ thống cảng biển: Ưu tiên kết nối theo thế mạnh từng vùng

19:38 | 15/07/2021 Print
(TBTCVN) - Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Hội đồng thẩm định thông qua với nhiều điểm mới.

gt

10 năm qua, hàng hóa thông qua cảng biển Việt Nam đạt mức tăng trưởng bình quân trên 11%/năm.

Trong đó, quy hoạch ưu tiên đến việc phát triển kết nối theo thế mạnh từng vùng cũng như phân cấp vai trò, thu hút đầu tư để đón nhận các cơ hội mới.

Giúp phát triển hạ tầng cảng biển tổng thể, liên kết cao

Theo Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam Nguyễn Xuân Sang, dù quy hoạch cảng biển đã được triển khai lập và thực hiện trong 20 năm qua, nhưng đây là lần đầu tiên quy hoạch được thực hiện với trình tự thủ tục chặt chẽ quy định trong Luật Quy hoạch và các văn bản hướng dẫn. Lần đầu tiên quy hoạch 5 chuyên ngành Giao thông vận tải (GTVT) là đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, hàng hải, hàng không được thực hiện đồng thời. Việc xây dựng quy hoạch được xem xét một cách tổng thể, có phân rõ vai trò từng phương thức trên từng hành lang vận tải chính dựa trên lợi thế vận tải đảm bảo tính hợp lý, đồng bộ trong kết nối các phương thức vận tải.

Trong đó, cảng biển được ưu tiên lựa chọn vị trí còn các phương thức khác (đường thủy nội địa, đường bộ và đường sắt) tùy thuộc vào lượng hàng hóa thông qua cảng, chủng loại hàng, cự ly, điều kiện tự nhiên và khả năng huy động nguồn lực sẽ được ưu tiên kết nối với vai trò gom và giải tỏa hàng hóa cho cảng biển. Đồng thời, quy hoạch lần này hoạch định rõ vai trò và định hướng phát triển hệ thống cảng cạn tại các chân hàng nằm sâu trong lục địa như “cánh tay nối dài” của hệ thống cảng biển. Các bến cảng phục vụ phương tiện thủy nội địa trong vùng nước cảng biển cũng lần đầu tiên được đưa vào quy hoạch, nhằm thúc đẩy các giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn giao thông kết nối với cảng biển những năm qua. Trong đó có tận dụng hiệu quả lợi thế của vận tải thủy nội địa vừa có năng lực lớn vừa hạn chế ô nhiễm môi trường.

Bên cạnh đó, quy hoạch cũng đã nghiên cứu hoạch định các bến mềm - bến phao. Đây là căn cứ để quản lý, phát triển hài hòa hạ tầng bến cứng, bến mềm trên cơ sở tận dụng tối đa các lợi thế về vận tải tại các khu vực có điều kiện tự nhiên thuận lợi, vừa đáp ứng nhu cầu vận tải, vừa đảm bảo về vấn đề an toàn, an ninh, kiểm soát môi trường và tăng hiệu quả đầu tư, khai thác cảng biển.

Tiếp đó, quy hoạch lần này tích hợp nội dung phát triển cảng biển bao gồm không gian phát triển vùng đất, vùng nước. Trong quy hoạch đẩy mạnh ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong xây dựng, quản lý, khai thác hướng tới xây dựng cảng biển xanh, tiết kiệm năng lượng, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên đường bờ; đồng thời, đề cập đến một số giải pháp mới như: thể chế hóa các quy định để phân cấp mạnh mẽ nhằm tăng khả năng huy động nguồn lực; khai thác nguồn lực từ quỹ đất.

Cũng theo Cục trưởng Nguyễn Xuân Sang, điểm đột phá nhất của quy hoạch lần này là việc xây dựng quy hoạch dựa trên sự tích hợp, phát triển đồng bộ theo không gian hành chính và theo các ngành, lĩnh vực giúp quá trình phát triển hạ tầng cảng biển nói riêng và kết cấu hạ tầng nói chung đảm bảo tính tổng thể, liên kết cao.

Phát triển kết nối theo thế mạnh từng vùng


Ông Nguyễn Xuân Sang cho biết thêm, giải pháp kết nối giữa cảng biển đến các chân hàng nội địa đối với từng nhóm cảng đã được định hướng trong quy hoạch lần này và được Bộ GTVT chỉ đạo trong nghiên cứu quy hoạch mạng lưới đường bộ, đường thủy nội địa, đường sắt, đảm bảo tính đồng bộ, phát huy hiệu quả từng phương thức vận tải. Trước mắt, trong giai đoạn 2021 - 2030, khu vực phía Bắc cần tập trung nâng tĩnh không cầu trên các tuyến hành lang đường thủy nội địa số 1, số 2 để tăng cường phương thức vận tải container bằng đường thủy về các cảng biển Hải Phòng, Quảng Ninh; đầu tư đường sau cảng Lạch Huyện và mở rộng đường Tân Vũ - Lạch Huyện. Khu vực miền Trung ưu tiên cải tạo nâng cấp các hành lang Đông - Tây kết nối Tây Nguyên và các cửa khẩu về các cảng biển.

Khu vực phía Nam cần hoàn chỉnh các tuyến vành đai, đường liên cảng, cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu; hành lang logistics đường thủy nội địa kết nối với Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ và tổ chức khai thác hiệu quả tuyến vận tải ven biển trên hành lang Bắc - Nam.

Cũng theo ông Nguyễn Xuân Sang, các phương thức kết nối cần tập trung vào phát triển loại hình kết nối theo thế mạnh của từng vùng. Ví dụ, khu vực phía Nam và phía Bắc có hệ thống sông kênh tốt, cần đẩy mạnh vận tải thủy nội địa kết nối đến các cảng biển. Khu vực miền Trung có địa hình hẹp, bờ biển dài cần tập trung khai thác hiệu quả tuyến vận tải ven biển và tuyến đường bộ kết nối trên hành lang Đông - Tây.

Trong 10 năm qua, hàng hóa thông qua cảng biển Việt Nam đạt mức tăng trưởng bình quân trên 11%/năm. Dự báo đến năm 2030, sản lượng hàng hóa thông qua toàn hệ thống cảng biển Việt Nam gấp 1,6 - 2,1 lần. Năm 2050 gấp 4,1 - 4,8 lần so với hiện tại. Tổng kinh phí để phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2030 ước tính khoảng từ 300 - 320 nghìn tỷ đồng (không bao gồm kinh phí đầu tư đối với các bến cảng, cầu cảng chuyên dùng).

Tăng trưởng bình quân trên 11%/năm


Trong 10 năm qua, hàng hóa thông qua cảng biển Việt Nam đạt mức tăng trưởng bình quân trên 11%/năm. Các hiệp định thương mại tự do đã và đang triển khai sẽ thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế giữa Việt Nam với các quốc gia khác. Dự báo đến năm 2030, sản lượng hàng hóa thông qua toàn hệ thống cảng biển Việt Nam gấp 1,6 - 2,1 lần. Năm 2050 gấp 4,1 - 4,8 lần so với hiện tại. Tổng kinh phí để phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2030 ước tính khoảng từ 300 - 320 nghìn tỷ đồng (không bao gồm kinh phí đầu tư đối với các bến cảng, cầu cảng chuyên dùng).

Trí Dũng

Trí Dũng

© Thời báo Tài chính Việt Nam