So sức khỏe 2 ngân hàng Techcombank và VPBank nửa đầu năm

16:50 | 21/07/2021 Print
Hai đại gia ngân hàng có vẻ khá cân xứng là Techcombank và VPBank đều đã tiết lộ thông tin kinh doanh 6 tháng đầu năm. Trong đó, bức tranh tài chính mỗi ngân hàng cũng mang một sắc thái nhau thể hiện đặc thù kinh doanh riêng của từng nhà băng.

vpbank

Xét về quy mô, VPBank có vốn chủ sở hữu nhỏ hơn so với Techcombank. Ảnh T.L.

Kẻ tám lạng, người nửa cân

Từ đầu năm 2020, cả Techcombank và VPBank đều đưa ra những kế hoạch kinh doanh giầu tham vọng cho thấy, không ngân hàng nào muốn mình bị lép vế trong cuộc đua của các đại gia ngân hàng năm 2021. Techcombank đặt ra mục tiêu lợi nhuận trước thuế hợp nhất năm 2021 lên tới 19.800 tỷ đồng, tăng trưởng 25,3%; trong khi đó VPBank đặt ra tham vọng lợi nhuận trước thuế 16.654 tỷ đồng, tăng trưởng 27,9%.

So sánh về quy mô vốn và tổng tài sản, Techcombank có vẻ nhỉnh hơn với vốn chủ sở hữu là 83.901 tỷ đồng, trong khi vốn của VPBank chỉ ở mức 60.012 tỷ đồng. Tuy nhiên, sức ảnh hưởng trên thị trường tín dụng của VPBank tỏ ra không kém cạnh gì mấy so với người bạn Techcombank. Giá trị huy động tiền gửi khách hàng của VPBank đến ngày 30/6/2021 là 233.591 tỷ đồng, có phần thấp hơn so với mức 289.335 tỷ đồng của Techcombank. Tuy nhiên, tổng số dư cho vay khách hàng của 2 ngân hàng này có quy mô xấp xỉ nhau, tương ứng với 310.618 tỷ đồng của Techcombank và 306.026 tỷ đồng của VPBank.

Với tính chất chung tương tự hầu hết các ngân hàng Việt Nam khi lợi nhuận vẫn phụ thuộc nhiều vào huy động vốn và cho vay, theo đó, cả Techcombank và VPBank đều có thu nhập lãi thuần lớn hơn rất nhiều so với lãi thuần từ hoạt động dịch vụ. Cụ thể, thu nhập lãi thuần của Techcombank lớn gấp 4,6 lần so với thu nhập thuần từ dịch vụ, thu nhập lãi thuần của VPBank lớn gấp gần 8,9 lần thu nhập thuần từ hoạt động dịch vụ.

Tương quan so sánh này cho thấy VPBank có vẻ đang phụ thuộc thu nhập từ hoạt động huy động và cho vay hơn khá nhiều so với Techcombank. Tuy nhiên, xu hướng cho thấy VPBank đang tỏ ra cố gắng cải thiện sự chênh lệch này, thể hiện ở tốc tộ tăng trưởng mảng dịch vụ đang tăng khá nhanh với 49,8%, nhanh hơn khá nhiều so với tốc độ tăng trưởng thu nhập lãi thuần. Trong khi đó, Techcombank lại đang có xu hướng ngược lại với tốc độ tăng trưởng thu nhập thuần từ dịch vụ tuy cũng khá cao với 31,5%, nhưng vẫn thấp hơn tốc độ tăng trưởng của thu nhập lãi thuần.

Xét về lợi nhuận, Techcombank tỏ ra có ưu thế hơn so với VPBank cả ở giá trị tuyệt đối lẫn tốc độ tăng trưởng. Cụ thể, lợi nhuận sau thuế của Techcombank đạt 9.283 tỷ , tăng trưởng tới 72%, trong khi tăng trưởng lợi nhuận của VPBank cũng ở mức khá, nhưng vẫn thua kém người bạn đồng nghiệp khi đạt 37% về tăng trưởng và 7.218 tỷ đồng về giá trị. Tuy vậy, lợi nhuận sau thuế nếu so với quy mô vốn thì VPBank cũng không phải là lép vế, tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu nửa đầu năm của VPBank là 12%, thậm chí còn cao hơn so với tỷ lệ 11% của Techcombank.

Mối duyện nợ mẹ - con

Diễn biến kinh doanh của 2 ngân hàng này cho thấy một yếu tố trái ngược nữa là hiệu quả kinh doanh của Techcombank có phần được hỗ trợ thêm từ hoạt động của các công ty con, còn VPBank lại bị “níu chân” từ các công ty con.

Lợi nhuận sau thuế của ngân hàng mẹ Techcombank ghi nhận con số tuyệt đối là 7.706 tỷ đồng, tăng trưởng 68% so với cùng kỳ. Tốc độ tăng trưởng này tuy cũng ở mức cao, nhưng vẫn thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng 72% của lợi nhuận hợp nhất. Ngoài ra, một chỉ số nữa cho thấy, Techcombank được hưởng nhờ từ công ty con là tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu của ngân hàng mẹ chỉ đạt 10%, thấp hơn tỷ lệ 11% theo số liệu tài chính hợp nhất.

Trong khi đó, ở một trạng thái trái ngược, ngân hàng mẹ VPBank lại phải gồng gánh khá nhiều cho các công ty con của mình. Con số thể hiện rõ nhất là lợi nhuận sau thuế của riêng ngân hàng mẹ ghi nhận 9.948 tỷ đồng, thậm chí cao hơn cả lợi nhuận hợp nhất (7.218 tỷ đồng). Điều này cho thấy đã có công ty con VPBank bị thua lỗ trong giai đoạn nửa đầu năm 2021. Nếu tách riêng ngân hàng mẹ, VPBank cũng có sự tăng trưởng lợi nhuận vượt trội hơn hẳn so với Techcombank, với tốc độ 196,8%. Bỏ qua ảnh hưởng của các công ty con, tỷ suất lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu của ngân hàng mẹ VPBank cũng đạt trên 18%, cao hơn khá nhiều so với tỷ lệ 10% của ngân hàng mẹ Techcombank./.

So sánh các chỉ số tài chính cơ bản của Techcombank và VPBank (tỷ đồng)

Techcombank

VPBank

Hợp nhất

Riêng lẻ

Hợp nhất

Riêng lẻ

Vốn chủ sở hữu

83.901

76.331

60.012

54.746

Tổng tài sản

504.304

491.559

451.767

394.753

Tiền gửi của khách hàng

289.335

289.850

233.591

229.546

Tăng trưởng so với đầu năm

4,3%

3,8%

0,07%

-0,07%

Cho vay khách hàng

310.618

302.307

306.026

246.526

Tăng trưởng so với đầu năm

12,8%

11,5%

6,7%

13%

Thu nhập lãi thuần

12.708

12.321

18.352

9.755

Tăng trưởng so với cùng kỳ

56%

57,2%

16,7%

42,4%

Thu nhập thuần từ hoạt động dịch vụ

2.782

1.502

2.072

1.837

Tăng trưởng so với cùng kỳ

31,5%

46,5%

49,8%

27,7%

Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trước chi phí dự phòng rủi ro

12.985

10.967

17.690

14.625

Tăng trưởng so với cùng kỳ

63,4%

60%

35,9%

122%

Lợi nhuận sau thuế

9.283

7.706

7.218

9.948

Tăng trưởng so với cùng kỳ

72%

68%

37%

196,8%


Chí Tín

Chí Tín

© Thời báo Tài chính Việt Nam