Trần nợ công giảm xuống 60% GDP, ngưỡng cảnh báo 55% GDP

11:26 | 28/07/2021 Print
Trong kế hoạch tài chính 5 năm tới, trần nợ công hàng năm giảm từ mức 65% xuống 60% GDP, trần nợ chính phủ giảm từ 54% GDP xuống 50% GDP. Đồng thời, trong kế hoạch đã bổ sung thêm chỉ tiêu về ngưỡng cảnh bảo nợ công khi tỷ lệ lên gần đến mức trần.

TBTC

100% đại biểu có mặt tán thành thông qua Nghị quyết về Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021 - 2025. Ảnh: PV

Sáng 28/7, với 100% số phiếu tán thành, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021 - 2025.

Giai đoạn 2021 - 2025: Vay nợ dự kiến hơn 3 triệu tỷ đồng

Theo nghị quyết, tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) giai đoạn 2021 - 2025 khoảng 8,3 triệu tỷ đồng; tỷ lệ huy động vào NSNN bình quân không thấp hơn 16% GDP, trong đó, từ thuế, phí khoảng 13 - 14% GDP; tỷ trọng thu nội địa bình quân khoảng 85 - 86% tổng thu NSNN.

Tổng chi NSNN giai đoạn 2021 - 2025 khoảng 10,26 triệu tỷ đồng, trong đó, tỷ trọng chi đầu tư phát triển bình quân khoảng 28%, tỷ trọng chi thường xuyên bình quân khoảng 62 - 63% tổng chi NSNN. Trong tổ chức thực hiện, phấn đấu tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển đạt khoảng 29%, giảm tỷ trọng chi thường xuyên xuống khoảng 60%.

Tổng chi đầu tư phát triển nguồn NSNN khoảng 2,87 triệu tỷ đồng, trong đó: chi từ nguồn vốn ngoài nước khoảng 300 nghìn tỷ đồng, chi từ nguồn cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước khoảng 248 nghìn tỷ đồng.

Tỷ lệ bội chi NSNN giai đoạn 2021 - 2025 bình quân 3,7% GDP, trong đó: bội chi ngân sách trung ương bình quân 3,4% GDP, bội chi ngân sách địa phương bình quân 0,3% GDP; trong tổ chức thực hiện, phấn đấu giảm xuống dưới 3,7% GDP.

Tổng mức vay trong giai đoạn 2021 - 2025 là 3,068 triệu tỷ đồng, trong đó mức vay của ngân sách trung ương khoảng 2,9 triệu tỷ đồng; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ khoảng 1,7 triệu tỷ đồng; tổng mức vay của ngân sách địa phương khoảng 148 nghìn tỷ đồng, mức vay của từng địa phương trong phạm vi giới hạn nợ theo quy định của pháp luật về NSNN; nghĩa vụ trả nợ của chính quyền địa phương khoảng 35,3 nghìn tỷ đồng.

Chính phủ bảo lãnh vay không quá 76,5 nghìn tỷ đồng

Về hạn mức bảo lãnh chính phủ và hạn mức vay về cho vay lại vốn ODA, vay ưu đãi nước ngoài trong giai đoạn 2021 - 2025, Quốc hội yêu cầu tốc độ tăng dư nợ bảo lãnh chính phủ năm sau không vượt quá tốc độ tăng GDP danh nghĩa của năm trước, riêng hạn mức bảo lãnh cho hai ngân hàng chính sách tối đa bằng nghĩa vụ trả nợ gốc hằng năm. Hạn mức rút vốn ròng các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh cả giai đoạn không quá 76,5 nghìn tỷ đồng và hạn mức rút vốn các khoản Chính phủ vay về cho vay lại không quá 222 nghìn tỷ đồng.

Để bảo đảm an toàn nợ công, Quốc hội đặt mức trần nợ công hằng năm không quá 60% GDP, ngưỡng cảnh báo là 55% GDP; trần nợ chính phủ hằng năm không quá 50% GDP; ngưỡng cảnh báo là 45% GDP; trần nợ nước ngoài của quốc gia hằng năm không quá 50% GDP; ngưỡng cảnh báo là 45% GDP. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ (không bao gồm cho vay lại) không quá 25% tổng thu NSNN. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia (không bao gồm nghĩa vụ trả nợ gốc ngắn hạn dưới 12 tháng) không quá 25% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ.

Như vậy, so với Kế hoạch tài chính quốc gia giai đoạn 2016 - 2020, trần nợ công hàng năm giảm từ mức 65% xuống 60% GDP, trần nợ chính phủ giảm từ 54% GDP xuống 50% GDP.

Định hướng công tác tài chính quốc gia trong 5 năm tới, Quốc hội yêu cầu Chính phủ khẩn trương sửa đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách thu để cơ cấu lại nguồn thu ngân sách, thúc đẩy tăng thu hợp lý kết hợp nuôi dưỡng nguồn thu bền vững; đẩy mạnh các biện pháp khai thác dư địa thu, chống thất thu, giảm nợ đọng thuế, mở rộng cơ sở thuế.

Đối với chi, từng bước cơ cấu lại chi NSNN theo hướng tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển, giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên gắn với đổi mới cơ chế phân bổ chi thường xuyên theo kết quả thực hiện nhiệm vụ; bảo đảm chi cho con người, an sinh xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và các lĩnh vực giáo dục, khoa học công nghệ… theo quy định của pháp luật.

Việc vay bù đắp bội chi NSNN chỉ sử dụng cho đầu tư phát triển; chỉ chi NSNN trong khả năng của nền kinh tế và chỉ vay trong khả năng trả nợ. Kiểm soát chặt chẽ nghĩa vụ nợ dự phòng, rà soát các khoản bảo lãnh mới, bảo đảm đúng quy định và hiệu quả.

Khẩn trương sửa đổi một số luật thuế

Tại nghị quyết, Quốc hội cũng nêu rõ về 10 nhiệm vụ giải pháp để thực hiện kế hoạch trong giai đoạn tới.

Trong đó, có việc khẩn trương sửa đổi, hoàn thiện một số luật thuế, nhất là Luật thuế Giá trị gia tăng, Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt...; chú trọng các nguồn thu từ đất đai, tài nguyên, khoáng sản để tránh thất thoát; hạn chế việc lồng ghép các chính sách xã hội trong pháp luật về thuế.

Tập trung nguồn lực để thực hiện cải cách tiền lương từ ngày 1/7/2022. Không sử dụng nguồn cải cách tiền lương còn dư cho đầu tư xây dựng cơ bản và các mục đích khác. Số tăng thu, tiết kiệm chi hàng năm ưu tiên để tạo nguồn cải cách tiền lương theo Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XII), giảm bội chi, trả nợ gốc và thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của Luật NSNN.

Trong việc vay trả nợ, Quốc hội yêu cầu đa dạng hóa nguồn vốn và phương thức vay trong nước, nước ngoài. Phát hành trái phiếu chính phủ tập trung vào kỳ hạn dài từ 5 năm trở lên, kết hợp linh hoạt phát hành một số kỳ hạn dưới 5 năm để đáp ứng nhu cầu huy động vốn và phát triển thị trường trái phiếu chính phủ; phấn đấu kỳ hạn phát hành bình quân trái phiếu chính phủ đạt từ 9 - 11 năm; tiếp tục thực hiện tái cơ cấu danh mục nợ trái phiếu chính phủ. Nâng cao tỷ trọng vay ngoài nước hỗ trợ ngân sách chung để tăng tính chủ động trong quản lý sử dụng vốn vay. Bố trí thanh toán trả nợ đầy đủ, đúng hạn, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn làm ảnh hưởng đến các cam kết của Chính phủ và hệ số tín nhiệm quốc gia.

Đối với các doanh nghiệp nhà nước, tiếp tục thực hiện sắp xếp lại theo hướng tập trung giữ những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, các thành phần kinh tế khác không đầu tư; củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn. Tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước nộp vào NSNN chỉ sử dụng cho đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, quan trọng quốc gia, địa phương và bổ sung vốn điều lệ cho một số doanh nghiệp nhà nước then chốt Nhà nước cần đầu tư và nắm giữ vốn theo quy định.

Về đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh việc rà soát, hoàn thiện đồng bộ cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trên cơ sở thực hiện tính đúng, tính đủ giá dịch vụ sự nghiệp công theo lộ trình. Đến năm 2025, giảm tối thiểu bình quân cả nước 10% số lượng đơn vị sự nghiệp công lập và 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ NSNN so với năm 2021; giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ NSNN cho đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2016 - 2020.

Cùng với đó, Chính phủ cần thường xuyên đánh giá những tác động của vay vốn đến dư nợ công, nợ chính phủ và nghĩa vụ trả nợ; gắn kết tỷ lệ bội chi NSNN và tỷ lệ trả nợ trực tiếp từ ngân sách trong điều hành NSNN hằng năm. Không ban hành các chính sách, chế độ, các chương trình, đề án mới khi không cân đối được nguồn. Trường hợp các chỉ tiêu nợ công chạm ngưỡng cảnh báo, Chính phủ báo cáo Quốc hội tình hình, giải pháp kiểm soát đặc biệt quản lý nợ công.

Hoàng Yến

Hoàng Yến

© Thời báo Tài chính Việt Nam