Bộ Tài chính đề xuất giảm thuế nhập khẩu thép xây dựng

11:54 | 14/07/2021 Print
Bộ Tài chính vừa hoàn thiện dự thảo nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 57/2020/NĐ-CP liên quan đến biểu thuế xuất nhập khẩu ưu đãi. Trong đó, Bộ Tài chính đã đề xuất giảm thuế nhập khẩu một số sản phẩm thép xây dựng xuống còn từ 10 - 15%

thép

Giảm thuế NK thép nhằm góp phần hạ giá thép xây dựng, thúc đẩy các doanh nghiệp giảm chi phí trong bối cảnh hiện nay. Ảnh: TL.

Duy trì mức thuế thúc đẩy ngành thép trong nước phát triển

Bộ Tài chính vừa hoàn thiện dự thảo nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 57/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP của Chính phủ về Biểu thuế xuất khẩu (XK), Biểu thuế nhập khẩu (NK) ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế NK ngoài hạn ngạch thuế quan và Nghị định số 125/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP.

Trong đó, dự thảo sửa đổi mức thuế XK, mức thuế NK ưu đãi đối với một số mặt hàng tăng giá mạnh thời gian qua để góp phần phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ, giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp theo yêu cầu của Chính phủ tại Nghị quyết số 63/NQ-CP và Nghị quyết số 58/NQ-CP. Cụ thể, điều chỉnh mức thuế suất thuế XK phôi thép và thuế suất thuế NK ưu đãi (MFN) đối với mặt hàng thép xây dựng.

Theo Bộ Tài chính, thời gian qua, với nhiều chính sách phù hợp, trong đó có chính sách thuế XK, thuế NK, ngành thép trong nước đã duy trì tốc độ tăng trưởng khá, từng bước tự chủ được công nghệ và năng lực sản xuất phôi thép, thép xây dựng, đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng trong nước và XK sản phẩm ra nước ngoài.

Luật Thuế XK, thuế NK và Nghị định số 57/2020/NĐ-CP quy định thuế XK được áp dụng chủ yếu đối với những mặt hàng là tài nguyên, khoáng sản không tái tạo. Mức thuế XK được xây dựng dựa theo nguyên tắc áp dụng mức cao đối với nguyên liệu, tài nguyên ở dạng thô và giảm dần đến các sản phẩm có mức độ chế biến cao hơn nhằm hạn chế XK tài nguyên thiên nhiên, sử dụng tài nguyên có hiệu quả, tạo giá trị gia tăng trong nước.

Theo nguyên tắc này, các mức thuế XK đối với mặt hàng sắt thép đã được quy định như sau: Mặt hàng quặng sắt thuộc nhóm 26.01, có thuế XK 40%, bằng mức trần Khung thuế XK. Phế liệu sắt thuộc nhóm 72.04 có thuế XK 15 - 17% bằng với mức trần Khung thuế XK. Phôi thép thuộc nhóm 72.06, 72.07 (bán thành phẩm) có thuế XK 0%, Khung thuế suất thuế XK là 0 - 40%.

Mặt hàng thép xây dựng (thuộc nhóm 72.13, 72.14, 72.15, 72.16): không có trong Danh mục khung thuế suất thuế XK ban hành kèm Luật Thuế XK, thuế NK nên mức thuế XK áp dụng là 0%.

Về thuế suất thuế NK nguyên liệu sản xuất thép (quặng, thép phế liệu) và thép xây dựng, Nghị định số 57/2020/NĐ-CP quy định thuế NK 0% hoặc thấp đối với nguyên liệu (quặng, thép phế liệu) để khuyến khích NK các mặt hàng này cho sản xuất trong nước, hay duy trì mức thuế suất cao hơn đối với bán thành phẩm (phôi thép), thép thành phẩm, khuyến khích sản xuất phôi, thép thành phẩm trong nước.

Đối với các mặt hàng thép trong nước không sản xuất được (thép hợp kim) quy định mức thuế suất 0% hoặc thấp để giúp các doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào. Ngoài ra, Việt Nam đã tham gia 15 hiệp định thương mại tự do (FTA) với nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ, việc NK sắt thép từ các thị trường này sẽ thực hiện theo mức thuế suất FTA tại các hiệp định.

Nghị định số 57/2020/NĐ-CP quy định: mức thuế suất thuế NK MFN của một số mặt hàng thép xây dựng ở mức 15%, 20% và 25%. Các mức thuế này cơ bản đảm bảo tuân thủ nguyên tắc ban hành biểu thuế, thuế suất quy định tại Luật Thuế XK, thuế NK. Mức thuế suất này được áp dụng để thúc đẩy ngành thép trong nước phát triển trong giai đoạn đầu.

Đề xuất giảm thuế một số sản phẩm thép còn từ 10 - 15%

Tuy nhiên, theo Bộ Tài chính, các mức thuế suất thuế NK MFN này cũng đã thực hiện trong một thời gian dài nên cần phải xem điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu mới, nhất là đối với thép xây dựng, thuế hiện cao hơn đáng kể so với các mức thuế suất theo các hiệp định mà Việt Nam là thành viên.

Bên cạnh đó, đến nay, ngành thép đã hoàn toàn tự chủ và đủ cung ứng cho nhu cầu trong nước đối với phôi thép, thép xây dựng và một số loại thép tấm, đồng thời đã XK được ra nước ngoài.

Do đó, để góp phần hạ giá mặt hàng thép xây dựng, thúc đẩy các doanh nghiệp giảm chi phí, đặc biệt trong bối cảnh giá nguyên liệu tăng cao, Bộ Tài chính trình Chính phủ phương án điều chỉnh mức thuế suất thuế XK đối với mặt hàng phôi thép và mức thuế suất thuế NK MFN của một số loại sắt thép như sau:

Về thuế XK phôi thép, Bộ Tài chính trình Chính phủ điều chỉnh tăng thuế suất thuế XK mặt hàng phôi thép (nhóm 72.06 và 72.07) từ 0% lên 5%. Thực hiện theo phương án này sẽ góp phần ổn định nguồn cung phôi thép cho thị trường trong nước, bình ổn giá trên thị trường và hạn chế được việc XK phôi thép giữ cho sản xuất trong nước, đảm bảo sự phát triến bền vững của ngành thép trong dài hạn.

Về thuế NK MFN, Bộ Tài chính trình Chính phủ giảm mức thuế đối với một số mặt hàng thép như sau:

Điều chỉnh giảm thuế NK MFN đối với thép cốt bê tông thuộc nhóm 72.13, 72.14, 72.15 từ 20% xuống 15%; đối với thép góc, khuôn, hình thuộc nhóm 72.16 và thép có răng khía thuộc nhóm 72.13 từ 15% xuống 10%.

Giảm thuế NK MFN đối với nhóm sắt thép không hợp kim cán phẳng thuộc 8 mã hàng của nhóm 72.10 từ mức 20% và 25% xuống 15%.

Theo Bộ Tài chính, việc giảm mức thuế NK đối với một số mặt hàng nêu trên tuy có một số ảnh hưởng làm giảm thu ngân sách nhà nước nhưng mức ảnh hưởng dự báo không lớn do nhu cầu NK các loại sắt thép này hiện nay là không cao.

Đây là những loại thép mà trong nước cũng đã sản xuất được và cơ bản đáp ứng được nhu cầu. Tuy nhiên, việc điều chỉnh này sẽ góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước đầu tư, đổi mới công nghệ để giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh đối với các sản phẩm thép NK; qua đó góp phần bình ổn thị trường trong nước, đồng thời, thúc đẩy ngành thép phát triển bền vững./.

Việt Nam sản xuất khoảng 24 triệu tấn phôi thép/năm

Năng lực sản xuất phôi thép của Việt Nam hiện nay đạt khoảng 24 triệu tấn/năm. Năm 2020, sản xuất phôi thép đạt 17,21 triệu tấn, đạt 70% năng lực sản xuất. Trong 4 tháng đầu năm 2021, sản lượng phôi thép sản xuất trong nước đạt khoảng 7,13 triệu tấn, tăng 35% so với cùng kỳ năm 2020. Năm 2020, tổng sản lượng thép xây dựng sản xuất đạt 10,11 triệu tấn, trong 4 tháng đầu năm 2021 đạt 3,93 triệu tấn, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2020.

Về tình hình XK, NK mặt hàng thép, năm 2020, XK sắt thép của Việt Nam đạt 9,8 triệu tấn. Trong 5 tháng đầu năm 2021, XK sắt thép tiếp tục tăng cả về số lượng và kim ngạch (đạt 4,85 triệu tấn, tăng 60% so với cùng kỳ năm ngoái; kim ngạch XK đạt 3,6 tỷ USD, tăng 113% so với cùng kỳ). Năm 2020, NK sắt thép đạt 13,3 triệu tấn. Trong 5 tháng đầu năm NK sắt thép tăng cả về số lượng và kim ngạch, kim ngạch NK đạt 4,79 tỷ USD, tăng 39% so với cùng kỳ.

Minh Anh

Minh Anh

© Thời báo Tài chính Việt Nam