Xây dựng và hoàn thiện nền tài chính quốc gia theo hướng hiện đại

09:29 | 27/01/2021 Print
Sáng 27/1, trong phiên thảo luận tại hội trường Đại hội XIII của Đảng, đồng chí Đinh Tiến Dũng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài chính có bài tham luận với chủ đề "Xây dựng và hoàn thiện nền tài chính quốc gia theo hướng hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước".

đại hội XIII

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng tham luận tại Đại hội. Ảnh: Đức Minh

Trong bài phát biểu, đồng chí Đinh Tiến Dũng biểu thị sự nhất trí cao với các Báo cáo đã được chuẩn bị công phu, chất lượng trình Đại hội, trong đó đã phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện những kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và cơ đồ đất nước sau 35 năm đổi mới, xác định những thành tựu quan trọng đã đạt được, đồng thời thẳng thắn chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm; trên cơ sở đó, xác định tầm nhìn và định hướng phát triển, quan điểm chỉ đạo, mục tiêu tổng quát đến năm 2025, 2030 và 2045; các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025; cùng định hướng phát triển đất nước nói chung và trong từng ngành, lĩnh vực nói riêng; xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm và 3 đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội XIII.

Dưới góc độ quản lý nhà nước về tài chính – ngân sách, đồng chí Đinh Tiến Dũng tham gia với Đại hội một số nội dung chính như sau:

Ngành Tài chính thực hiện tốt các nghị quyết chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ

Đồng chí Đinh Tiến Dũng nhấn mạnh, ngành Tài chính đã quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ nhiệm kỳ vừa qua, có những bước phát triển bền vững, đóng góp quan trọng vào kết quả phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của đất nước, thể hiện:

Thứ nhất, ngành Tài chính đã tập trung hoàn thiện thể chế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy quá trình đổi mới, cơ cấu lại, phát triển nền kinh tế, hội nhập quốc tế; cơ cấu lại ngân sách nhà nước (NSNN) và nợ công theo hướng bền vững; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực.

Về thu NSNN, ngành Tài chính đã xây dựng được hệ thống chính sách thu ngân sách, động viên hợp lý, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; bao quát các nguồn thu, chống chuyển giá, công khai, minh bạch; chuyển phương thức quản lý thu từ tiền kiểm sang hậu kiểm theo nguyên tắc quản lý rủi ro; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính kết hợp hiện đại hóa công tác quản lý thu; đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra.

Nhờ vậy, nên mặc dù liên tục thực hiện điều chỉnh giảm nghĩa vụ thu, cắt giảm thuế quan theo các hiệp định thương mại tự do, xóa bỏ các khoản phí, lệ phí không phù hợp, nhưng tổng thu NSNN cả giai đoạn 2016-2020 vẫn vượt mục tiêu đề ra và đạt khoảng 6,9 triệu tỷ đồng, tương ứng trên 25% GDP, vượt mục tiêu đề ra.

Cơ cấu thu đã dịch chuyển theo hướng bền vững hơn, phù hợp với trình độ phát triển và hội nhập của nền kinh tế, tăng tỷ trọng thu nội địa từ mức bình quân 68,7% giai đoạn 2011-2015 lên mức 82% giai đoạn 2016-2020 và đến năm 2020 đạt mức 85,5%; giảm tỷ trọng thu từ xuất nhập khẩu và dầu thô.

Thu ngân sách địa phương (NSĐP) có xu hướng tăng, từ mức 37,4% tổng thu NSNN giai đoạn 2011-2015 lên mức 45% giai đoạn 2016-2020, đã tăng cường khả năng tự chủ cho địa phương. Đến năm 2020, đã có 30/63 địa phương có quy mô thu NSNN trên 10 nghìn tỷ đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 2016 (15 địa phương); đồng thời, số địa phương có quy mô thu dưới 5 nghìn tỷ giảm hơn 1 nửa, từ 37 địa phương năm 2016 xuống còn 16 địa phương năm 2020.

Chi NSNN đã có nhiều đổi mới trong quản lý chi ngân sách, triển khai kế hoạch tài chính trung hạn; đẩy mạnh khoán chi, đấu thầu, đặt hàng; tăng cường phân cấp, trao quyền tự chủ; thực hiện cơ chế tài chính đặc thù đối với các thành phố lớn; siết chặt kỷ luật tài chính – ngân sách...

Chi ngân sách được kiểm soát chặt chẽ, tăng hiệu quả và thực hiện cơ cấu lại, ưu tiên nguồn lực thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các đột phá chiến lược của nền kinh tế về hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực.

Tăng tỷ trọng bố trí chi đầu tư phát triển giai đoạn 2016-2020, bình quân đạt 28-29% tổng chi NSNN, giảm tỷ trọng chi thường xuyên xuống khoảng 63% tổng chi NSNN, vượt mục tiêu đề ra, trong khi vẫn đảm bảo nguồn thực hiện cải cách tiền lương công chức, viên chức, lương hưu và trợ cấp ưu đãi đối với người có công; thực hiện chuẩn nghèo đa chiều, tăng diện bao phủ bảo hiểm y tế, phát triển hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội...

Việc triển khai thực hiện Nghị quyết 19 của Trung ương khóa XII đạt kết quả tích cực. Nguồn thu sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp công lập trên toàn quốc trong giai đoạn 2016-2020 đạt trên 1,4 triệu tỷ đồng, tập trung ở các địa phương kinh tế phát triển, góp phần cơ cấu lại chi ngân sách, ưu tiên nguồn lực hỗ trợ miền núi, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Bội chi NSNN đã giảm từ mức bình quân 5,4% GDP giai đoạn 2011-2015 về mức 3,6% GDP giai đoạn 2016-2020, vượt mục tiêu đề ra (4% GDP).

Về quản lý nợ công, đã hoàn thiện thể chế, phát triển hệ thống các công cụ quản lý nợ công như Chiến lược nợ công 10 năm, kế hoạch vay trả nợ công 5 năm, 3 năm và hàng năm...; đảm bảo quản lý chủ động, an toàn, bền vững...

Đẩy mạnh cơ cấu lại nợ công theo hướng bền vững hơn, tăng tỷ trọng vay trong nước từ 39% năm 2011 lên khoảng 64% năm 2020; kéo dài kỳ hạn phát hành bình quân lên mức 14 năm trong năm 2020; lãi suất huy động giảm xuống, năm 2020 còn 2,86%/năm; giảm quy mô nợ công từ mức 63,7% GDP cuối năm 2016 xuống 55,8% GDP cuối năm 2020.

Những kết quả tích cực từ việc cơ cấu lại NSNN, nợ công giai đoạn 2016-2019 đã tạo dư địa quan trọng cho chính sách tài khóa, nên trong năm 2020 mặc dù kinh tế khó khăn do tác động nghiêm trọng của thiên tai, dịch bệnh, thu ngân sách sụt giảm, nhưng chúng ta vẫn chủ động nguồn xử lý được các vấn đề cấp bách phát sinh, hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế, như thực hiện gia hạn cho khoảng 185 nghìn lượt người nộp thuế và thực hiện miễn, giảm thuế, phí, lệ phí cho khoảng trên 6 triệu người nộp thuế, với tổng kinh phí khoảng 130 nghìn tỷ đồng, tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh, đảm bảo quốc phòng, an ninh.

Thứ hai, đã đẩy mạnh việc hoàn thiện đồng bộ thể chế, cơ cấu lại, phát triển thị trường chứng khoán, bảo hiểm, thị trường dịch vụ tài chính. Đến cuối năm 2020, quy mô thị trường chứng khoán đạt trên 130% GDP, vượt mục tiêu đề ra là 100% GDP, trở thành kênh huy động và phân bổ vốn trung và dài hạn hiệu quả cho nền kinh tế.

Các thị trường bảo hiểm, dịch vụ kế toán, kiểm toán tiếp tục tăng trưởng cao, góp phần tăng cường công khai, minh bạch và có đóng góp đầu tư cho nền kinh tế.

Thứ ba, triển khai Nghị quyết số 18 của Trung ương khóa XII, ngành Tài chính đã tích cực sắp xếp lại bộ máy, tinh gọn đội ngũ công chức, nâng cao hiệu quả, hiệu lực bộ máy. Tính đến hết 2020, đã cắt giảm 4.328 đầu mối đơn vị, giảm 6.460 biên chế (8,7% so với năm 2015); đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra.

Đồng thời đã quyết liệt triển khai chủ trương xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số và nền kinh tế số. Đến nay, các doanh nghiệp đã cơ bản thực hiện toàn bộ các thủ tục khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế, thủ tục hải quan trên môi trường điện tử.

Với những bước phát triển tương đối toàn diện ở tất cả các khâu, các lĩnh vực, ngành tài chính đã có những đóng góp quan trọng vào việc tăng cường ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao hệ số tín nhiệm quốc gia, thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội, hội nhập khu vực và quốc tế, tạo nền tảng quan trọng cho việc triển khai các định hướng phát triển giai đoạn tới.

Đạt được những kết quả tài chính, ngân sách tích cực trong 5 năm qua, đặc biệt là trong năm 2020, là nhờ có chủ trương và sự chỉ đạo sát sao, đúng hướng của Đảng, Nhà nước, sự hỗ trợ của các bộ, ngành ở trung ương, đặc biệt là sự phối hợp và vào cuộc quyết liệt của cấp ủy, chính quyền địa phương, sự phối hợp của cộng đồng doanh nghiệp và người dân cùng xây dựng, phát triển hệ thống tài chính quốc gia ngày càng vững vàng hơn, hiệu quả hơn, phục vụ công cuộc đổi mới của đất nước.

đại hội XIII
Các đại biểu tham dự ngày làm việc thứ 3 của Đại hội. Ảnh: Khánh Huyền

Bước sang giai đoạn 2021-2025, chiến lược 10 năm 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045, đồng chí Đinh Tiến Dũng khẳng định: "Chúng tôi thống nhất cao với nhận định trong Báo cáo Chính trị về tình hình thế giới và đất nước những năm tới. Chúng tôi cho rằng bên cạnh những thuận lợi cơ bản về ổn định chính trị, kinh tế vĩ mô, nền kinh tế năng động, phát triển, thì trong giai đoạn tới chúng ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là xu thế cạnh tranh các nước lớn trên thế giới và trong khu vực, tác động của biến đổi khí hậu và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư".

Nhiệm vụ trọng tâm của ngành Tài chính trong giai đoạn tới

Trên cơ sở đó, báo cáo tại Đại hội, đồng chí Đinh Tiến Dũng cho biết, xác định nhiệm vụ trọng tâm của ngành Tài chính trong giai đoạn tới là: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế tài chính, cơ cấu lại NSNN, nợ công nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phát triển và cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh đổi mới khu vực sự nghiệp công lập, tiếp tục sắp xếp, tinh gọn bộ máy, biên chế cùng với cải cách, hiện đại hóa công tác quản lý; siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính-ngân sách; củng cố dư địa tài khóa, nâng cao khả năng chống chịu của nền tài chính quốc gia, trong đó tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu sau:

Thứ nhất, hoàn thiện, triển khai đồng bộ hệ thống chính sách giá cả, tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp, kế toán, kiểm toán, cải cách hành chính, ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,… khơi thông và phân bổ các nguồn lực tài chính theo tín hiệu thị trường, ưu tiên thu hút vốn đầu tư nước ngoài tạo giá trị gia tăng cao, quản trị hiện đại, kết nối chuỗi cung ứng toàn cầu, có tác động lan tỏa, kết nối chặt chẽ hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước, đi đôi với bảo vệ môi trường, phát triển bền vững; chuyển dịch đầu tư từ chiều rộng sang chiều sâu, cạnh tranh, phát triển mạnh mẽ trong môi trường hội nhập, thực hiện đầy đủ các cam kết FTA trước đây, đồng thời chủ động triển khai các FTA thế hệ mới (như CPTPP, EVFTA…).

Về thể chế quản lý NSNN, tập trung nghiên cứu, sửa đổi Luật NSNN, bảo đảm vai trò chủ đạo của NSTW; hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền, ủy quyền theo hướng Chính phủ quản lý các cân đối lớn, giữ vai trò định hướng phát triển chung cho cả nước. Xây dựng cơ chế quản lý tài chính ngân sách phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của 5 đô thị trung tâm: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ.

Thứ hai, phát triển hệ thống thu hiện đại, gắn với cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước phù hợp với trình độ phát triển, hội nhập và thông lệ quốc tế, bao quát nguồn thu, hạn chế tối đa việc lồng ghép chính sách xã hội, bảo đảm tính trung lập, góp phần tạo dựng môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, hiện đại, thuận tiện, điều tiết thu nhập hợp lý; đồng thời tăng tính bền vững, bảo đảm nguồn thu đáp ứng các nhu cầu quản lý, điều hành, phát triển nền kinh tế trong tình hình mới.

Thứ ba, đẩy mạnh cơ cấu lại chi NSNN trên cơ sở phân định rõ vai trò, chức năng của Nhà nước và thị trường, đẩy mạnh đổi mới khu vực sự nghiệp công lập, thực hiện “xã hội hóa” trong một số lĩnh vực như y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao và tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả; triển khai quản lý ngân sách trung hạn, theo kết quả thực hiện nhiệm vụ; gắn kết chặt chẽ chi đầu tư với chi thường xuyên; mở rộng việc áp dụng các nguyên tắc thị trường trong quản lý, cung ứng dịch vụ hành chính, sự nghiệp công, quản lý, khai thác, sử dụng tài sản công; cải thiện mạnh mẽ hiệu quả, hiệu lực chi tiêu công.

Quản lý chặt chẽ bội chi ngân sách và nợ công, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, tăng cường ổn định vĩ mô vững chắc; cải thiện dư địa chính sách tài khóa, đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững.

Thứ tư, quyết liệt thực hiện các mục tiêu Nghị quyết số 19-NQ/TW của Trung ương về về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Khẩn trương hoàn thiện thể chế; hoàn thành lộ trình tính đúng, tính đủ chi phí vào giá dịch vụ sự nghiệp công, chuyển mạnh cơ chế cấp phát theo dự toán sang cơ chế đấu thầu, đặt hàng dịch vụ công trên cơ sở tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ, định mức kinh tế, kỹ thuật; đẩy mạnh cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường, thúc đẩy xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp công. Phấn đấu hoàn thành các mục tiêu giảm tối thiểu bình quân cả nước 10% đơn vị sự nghiệp công lập; có tối thiểu 20% đơn vị tự chủ tài chính; và 100% đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác có đủ điều kiện hoàn thành chuyển đổi thành công ty cổ phần.

Thứ năm, khẩn trương hoàn thiện cơ chế cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp, nhất là vấn đề xác định giá trị quyền sử dụng đất, tài sản cố định, thương hiệu; tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán, không để xảy ra thất thoát vốn, tài sản nhà nước trong quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, quản lý và sử dụng vốn nhà nước. Đến năm 2025, hoàn thành việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước, tinh gọn số lượng, tập trung nguồn lực đầu tư nhà nước vào các doanh nghiệp nhà nước có vị trí quan trọng, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh; cơ cấu lại, phát triển các doanh nghiệp này theo cơ chế thị trường, công nghệ hiện đại, quản trị tiên tiến, minh bạch, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế; xử lý cơ bản xong những yếu kém, thua lỗ, thất thoát của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước hiện nay. Tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước được quản lý tập trung và chỉ sử dụng cho đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, quan trọng quốc gia, bổ sung vốn điều lệ cho doanh nghiệp nhà nước then chốt quốc gia.

Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính; siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính-ngân sách, tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, công khai, minh bạch; phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Phấn đấu đến năm 2025 hoàn thành xây dựng Chính phủ điện tử, chính phủ số ở những lĩnh vực tài chính quốc gia, tài chính công trọng yếu (NSNN, thuế, hải quan, chứng khoán, quản trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp…).

Thực hiện hiệu quả nguyên tắc chi trong khả năng nguồn lực, vay trong khả năng trả nợ, gắn trách nhiệm quản lý huy động, sử dụng, với quản lý bội chi, trả nợ và trách nhiệm giải trình; hoàn thiệu cơ sở dữ liệu về thu, chi, nợ công, tài sản công, tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý, điều hành tài chính công ở cả phạm vi vĩ mô và vi mô; nâng cao tính công khai, minh bạch; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí...

Nâng cao năng lực, chất lượng và mở rộng hoạt động của công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán tài chính theo nguyên tắc rủi ro và ứng dụng công nghệ thông tin; tăng cường hiệu lực của hệ thống giám sát nội bộ, vai trò của công tác giám sát từ xa; phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, địa phương để xử lý có hiệu quả các kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, thu hồi tối đa cho Nhà nước tiền, tài sản bị vi phạm, chiếm đoạt.

Tại đại hội, đồng chí Đinh Tiến Dũng bày tỏ, trong bối cảnh khó khăn, thách thức, nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn tới là khá nặng nề, nhưng với ý chí và quyết tâm cao, ngành Tài chính xin hứa trước Đại hội sẽ tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, sáng tạo, nhiệt huyết, phấn đấu thực hiện đạt và vượt các mục tiêu tài chính-NSNN, củng cố tiềm lực, giữ vững an ninh, an toàn tài chính quốc gia, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra./.

Đức Minh - Hoàng Yến

Đức Minh - Hoàng Yến

© Thời báo Tài chính Việt Nam