Hạ lãi suất, nới lỏng tiếp cận tín dụng giúp cả doanh nghiệp và ngân hàng cùng vượt khó

16:22 | 23/08/2021 Print
Việc các ngân hàng hỗ trợ lãi suất, nới lỏng các tiêu chí tiếp cận tín dụng cho doanh nghiệp lúc này không chỉ nhằm giúp doanh nghiệp vượt qua cú sốc khủng hoảng, mà còn giúp chính các ngân hàng bảo toàn được lợi nhuận trong tương lai của họ.

nh

Ảnh minh họa

Hạ lãi suất cho vay là cần thiết

Để kịp thời hỗ trợ nền kinh tế trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh, trong năm 2020 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã điều chỉnh giảm 3 lần đồng bộ các mức lãi suất với quy mô tương đối lớn, với tổng mức giảm từ 1,5 – 2%/năm lãi suất điều hành.

Từ đầu năm 2021 đến nay, NHNN vẫn giữ nguyên các mức lãi suất điều hành này tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại (NHTM) tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp, qua đó có điều kiện giảm lãi suất cho vay. Theo đó, các NHTM điều chỉnh lãi suất đầu vào/ đầu ra phù hợp với thị trường và tình hình hoạt động của các NHTM.

Bình luận về việc ngân hàng cần phải hạ lãi suất cho vay, TS. Bùi Duy Tùng - giảng viên kinh tế Đại học RMIT, cho rằng việc hạ lãi suất cho vay mà đặc biệt trong lúc này cũng là biện pháp điều hành linh hoạt phù hợp, nhằm mở rộng tín dụng, tập trung vốn cho vay đối với đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ.

Theo TS. Tùng, hơn ai hết, các ngân hàng cần phải hiểu rằng, tác động của đại dịch đến lợi nhuận và hoạt động của họ thường có độ trễ. Khi giãn cách xã hội, hầu như các doanh nghiệp, nhà xưởng đều phải đóng cửa, số mở cửa thì hoạt động cầm chừng. Tuy nhiên, do đặc thù là ngành dịch vụ và là hoạt động thiết yếu nên các ngân hàng vẫn tổ chức hoạt động được khi xã hội giãn cách.

Nhưng nếu thời gian giãn cách kéo dài, sức khỏe tài chính của các doanh nghiệp kiệt quệ thì lúc này lợi nhuận của ngân hàng mới thực sự bị ảnh hưởng. Khi các doanh nghiệp không còn đủ khả năng trả nợ; nợ xấu sẽ tăng và trực tiếp làm sụt giảm lợi nhuận của ngân hàng. Cho nên việc các ngân hàng hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp lúc này không chỉ nhằm giúp doanh nghiệp vượt qua cú sốc khủng hoảng mà còn giúp chính các ngân hàng bảo toàn được lợi nhuận trong tương lai của họ.

Vị chuyên gia của Đại học RMIT nhấn mạnh: “Giữa doanh nghiệp và ngân hàng lúc này càng phải thấu hiểu, cần chia sẻ và cần đứng ở vị trí của nhau để nhìn nhận đánh giá trong mối quan hệ giữa hai bên để cùng “vượt khó”, nếu không thì cả hai sẽ đều bị “ngã””.

Thận trọng khi nới lỏng các tiêu chí tiếp cận tín dụng

Cũng theo TS. Bùi Duy Tùng, trước ảnh hưởng của Covid-19, NHNN đã chủ động nắm bắt tình hình, ban hành chính sách chỉ đạo triển khai kịp thời, quyết liệt các giải pháp hỗ trợ khách hàng khắc phục khó khăn do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.

Cụ thể, tháng 3/2020, NHNN đã ban hành Thông tư 01/2020/TT-NHNN để hỗ trợ các doanh nghiệp gặp khó khăn. Đến tháng 4/2021, NHNN đã ban hành Thông tư 03/2021/TT-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 01/2020/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.

Tuy nhiên, tốc độ diễn tiến quá nhanh của dịch bệnh khiến cho các chính sách phải thay đổi liên tục để phù hợp hơn với tình hình mới. Đây là một thách thức rất lớn nhưng với tinh thần chủ động, NHNN có thể sẽ ban hành các thông tư mới để hỗ trợ các doanh nghiệp.

Theo TS. Tùng, việc nới lỏng các tiêu chí tiếp cận tín dụng để khơi thông dòng vốn cho doanh nghiệp là cần thiết nhưng việc nới lỏng này cần phải được xem xét một cách thận trọng. Khơi thông dòng vốn, hạ lãi suất cho vay không nên đánh đồng với việc cho vay tràn lan và cho vay dưới chuẩn.

Lý giải điều này ông cho rằng, do dòng vốn có thể được hướng đến các lĩnh vực mang tính chất đầu cơ và không thực sự mang lại giá trị cho nền kinh tế. Kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng trước đây đã cho thấy hậu quả của việc cho vay dưới chuẩn (khủng hoảng kinh tế tài chính 2008) và hướng dòng vốn vào các lĩnh vực không cần thiết (bong bóng bất động sản ở Việt Nam giai đoạn 2007 - 2011).

“Việc bơm vốn cần phải được thực hiện mạnh mẽ để vực dậy nền kinh tế sau đại dịch. Tuy nhiên, dòng vốn này phải được chảy về các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thiết yếu và ưu tiên theo chỉ đạo của Chính phủ và NHNN” - TS. Tùng nêu ý kiến.

Trả lời câu hỏi của phóng viên TBTCO, TS. Nguyễn Văn Hiến - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tài chính - Marketing cho rằng, mục tiêu tăng trưởng tín dụng của Việt Nam năm 2021 là 12%. Tuy nhiên, đến nay chúng ta mới đạt khoảng 5,4% về tăng trưởng tín dụng.

Muốn đảm bảo được tăng trưởng tín dụng thì cần có chính sách hỗ trợ những doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 khi khó khăn về tiếp cận tín dụng, hỗ trợ trong thực hiện nghĩa vụ đối với những khoản nợ đã đến hạn.

Cụ thể như giảm lãi, phí, chưa chuyển nhóm nợ, cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho các khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19; đồng thời, tiếp tục mở rộng room tín dụng để các doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận tín dụng mở rộng sản xuất, nhất là các doanh nghiệp hoạt động sản xuất phục vụ suất khẩu và phục vụ an sinh xã hội.

Cũng theo TS. Nguyễn Văn Hiến, rủi ro về nợ xấu khi thực hiện cơ cấu lại nợ là có. Để tránh việc chuyển nhóm nợ, cơ cấu lại nợ một cách tràn lan làm phát sinh nợ xấu, ông cho rằng, cần phải có các tiêu chí cụ thể, trong đó các doanh nghiệp được hỗ trợ cần phải chứng minh được mình bị ảnh hưởng bởi Covid-19.

Thảo Miên

Thảo Miên

© Thời báo Tài chính Việt Nam