Toàn cảnh hội thảo.
Đây là đánh giá của các chuyên gia tại Hội thảo “Cần có cái nhìn đúng về Nhà máy nhiệt điện than”, do Báo Lao Động và Bộ Công thương tổ chức, diễn ra ngày 13/12 tại Hà Nội.
Nhiệt điện than – vẫn là sự lựa chọn tối ưu
Đánh giá về vai trò của nhà máy nhiệt điện các chuyên gia đều khẳng định, các nhà máy này có vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Số liệu đưa ra tại hội thảo cho thấy, theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, đến năm 2030, cả nước sẽ có hơn 70 nhà máy nhiệt điện than. Dự kiến giai đoạn 2018 – 2022, tổng công suất các nguồn điện đưa vào vận hành là 34.864 MW, trong đó nhiệt điện than là 26.000 MW.
Tuy nhiên, thực tế tới nay mới chỉ có 7 dự án nhiệt điện than đã được khởi công và đang triển khai xây dựng với tổng công suất 7.860 MW, còn thiếu 18.000 MW theo yêu cầu.
Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Công thương Cao Quốc Hưng cho biết, quan điểm chỉ đạo của Chính phủ là phải đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, trong đó có việc đảm bảo cung cấp đủ điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ quan trọng. Trong giai đoạn 2016-2030, dự báo tốc độ tăng trưởng GDP với kịch bản cơ sở bình quân 7%, tương ứng với tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm toàn quốc ở phương án cơ sở giai đoạn 2016-2020, 2021-2025 và 2026 -2030 là 10,6%, 8,5% và 7,5%.
“Áp lực tăng trưởng điện tới năm 2030 vẫn còn rất lớn, các nguồn thủy điện và năng lượng tái tạo chưa đáp ứng được đòi hỏi nhu cầu năng lượng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Do đó trong giai đoạn tới, nhiệt điện than đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia”, Thứ trưởng Bộ Công thương Cao Quốc Hưng đánh giá.
Bên cạnh đó, ông Lê Văn Lực - Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công thương) cho biết, để bảo đảm cung cấp điện ổn định, phù hợp cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội đất nước cần đẩy mạnh các dự án nguồn điện như nhiệt điện than, nhiệt điện khí, năng lượng tái tạo, nhập khẩu điện với tỷ lệ thích hợp, bảo đảm các mục tiêu chủ yếu như đã đề ra trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia.
“Bên cạnh việc phát triển năng lượng tái tạo, nhiệt điện khí thì nhiệt điện than vẫn là giải pháp cơ bản bảo đảm cung cấp điện với chi phí hợp lý, phù hợp với kinh tế đất nước và thu nhập của người dân. Từ nay đến năm 2030 và những năm tiếp theo nhiệt điện than vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn điện, có như vậy mới đảm bảo cung cấp đủ điện với giá điện hợp lý cho phát triển kinh tế đất nước”, ông Lực nhấn mạnh.
Thông tin người chết yểu do nhiệt điện than chỉ là suy diễn
Tại hội thảo, có nhiều ý kiến cho rằng, thời gian vừa qua, chúng ta đã và đang nhìn nhận sai lệch và thiếu thiện cảm về nhiệt điện than, lo ngại về ô nhiễm môi trường. Theo PGS. TS. Trương Duy Nghĩa, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật Nhiệt Việt Nam, gần đây trong công tác truyền thông xuất hiện nội dung phê phán nhiệt điện than.
Những phê phán này xuất phát từ nhận xét, đốt than nhiều là nguồn phát thải lớn khí nhà kính CO2; thải ra nhiều tro xỉ, nhiều khí độc hại SO2, Nox. Tuy nhiên, những thông tin như vậy chưa chuẩn xác, nhiều suy diễn.
“Về thông tin người chết yểu do nhiệt điện than được công bố theo nghiên cứu của Trường Đại học Havard, mỗi năm Việt Nam có 4.300 người chết yểu, tới 2030, khi nhiệt điện than đạt 300 tỷ kWh thì số người chết yểu sẽ là 17.500 người… Đây là chỉ sự suy diễn không có cơ sở khoa học. Hiện nhiệt điện than tại Việt Nam có công nghệ xử lý môi trường tốt và luôn đạt các quy chuẩn quản lý môi trường của quốc gia", ông Nghĩa chia sẻ.
Các chuyên gia đánh giá, nhiệt điện than với công nghệ cao, hiện đại, thân thiện với môi trường vẫn mang lại nhiều lợi ích cho hệ thống điện vì diện tích chiếm đất ít, sản lượng điện lớn, ổn định, giá thành sản xuất hợp lý hơn. Đặc biệt, vấn đề môi trường được kiểm soát, giám sát chặt chẽ bởi Chính phủ, các bộ ngành chức năng cũng như các tổ chức xã hội và nhân dân nơi có dự án.
Ông Nguyễn Tân Bình, Trưởng ban Khoa học công nghệ - Môi trường Tập đoàn Điện lực Việt Nam cho hay, hiện nay các nhà máy nhiệt điện than của EVN đang sử dụng công nghệ hiện đại không thua kém các nhà máy trong khu vực và trên thế giới, đáp ứng tốt các yêu cầu về môi trường.
“Các giải pháp về môi trường luôn được áp dụng đồng bộ, tuân thủ nghiêm ngặt bảo vệ môi trường, vận hành hiệu quả và giảm thiểu tối đa phát thải ra môi trường xung quanh. Tình hình tiêu thụ tro xỉ đối với các nhà máy nhiệt điện than được EVN xử lý tương đối tốt…Hiện các kết quả đo đạc, phân tích cho thấy phát thải của các nhà máy thường thấp hơn nhiều lần so với quy chuẩn môi trường quy định”, ông Bình nhấn mạnh.
Ngoài ra, phát biểu tại hội thảo, ông Phạm Anh Dũng, Phó Vụ trưởng Vụ Thẩm định đánh giá tác động môi trường – Tổng Cục Môi trường (Bộ Tài nguyên Môi trường) cho biết thêm, nước ta đã có nhiều văn bản pháp luật quy định về vấn đề bảo vệ môi trường đối với các nhà máy nhiệt điện và các nhà máy cơ bản đã làm tốt, ví như mô hình của Nhiệt điện Vĩnh Tân 2 (EVN) chẳng hạn./.
Tố Uyên