Mới đây, trước phản ứng của cộng đồng doanh nghiệp (DN), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã kiến nghị Chính phủ chưa thực hiện quy định về độ ẩm và tỷ lệ mạ băng với cá tra phi lê đông lạnh trong Nghị định 36/2014/NĐ-CP.

Theo Nghị định này, sản phẩm cá tra phi lê khi xuất khẩu phải có hàm lượng ẩm không vượt quá 83% và tỉ lệ mạ băng (tỷ lệ nước mạ băng trên trọng lượng tổng) không vượt quá 10%.

Mong muốn của cơ quan quản lý

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Vũ Văn Tám cho rằng, quy định này là một cách để bảo vệ thương hiệu cá tra Việt Nam.

Quy định trên xuất phát từ thực tế: Năm 2008 và 2014, Nga đã cấm nhập khẩu cá tra Việt Nam vì sản phẩm phi lê cá tra không đáp ứng yêu cầu an toàn thực phẩm. Cụ thể, nhiều sản phẩm phi lê cá tra có tỷ lệ băng quá lớn, thậm chí có lúc lên đến 30%, tức là trong 1kg sản phẩm có đến 30% là nước, tạo điều kiện cho các loại vi sinh vật phát triển.

ca tra xuat khau

Theo Vasep, những vấn đề về chất lượng sản phẩm nên để DN và thị trường quyết định.

Từ tháng 8/2014, phía Nga đã cho phép DN Việt Nam xuất khẩu cá tra trở lại. Tuy nhiên, trong một thông báo mới đây của cơ quan chức năng Nga gửi Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản (Nafiqad), sản phẩm phi lê cá tra của 1 DN Việt Nam bị phát hiện có vi sinh vật kỵ khí lớn trong băng ướp cá cao hơn quy định, và bạn đề nghị Nafiqad kiểm tra chặt những sản phẩm của DN này trước khi xuất sang Nga. Nếu tiếp tục tái diễn, Nga sẽ có lệnh cấm nhập khẩu đối với DN này.

Mặc dù vậy, trước những “tâm thư” sẽ đóng cửa nhiều nhà máy nếu Bộ NN&PTNT vẫn áp dụng tỷ lệ mạ băng trong các sản phẩm phi lê cá tra đúng quy định từ 1/1/2015, Bộ NN&PTNT "cực chẳng đã" phải kiến nghị lùi thời gian áp dụng quy định trên thêm 1 năm nữa.

Còn trên báo Nông nghiệp Việt Nam, ông Phạm Anh Tuấn, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Thủy sản, khẳng định: “Giảm tỷ lệ mạ băng, hàm ẩm không phải chuyển đổi công nghệ chế biến gì ghê gớm và tốn kém nên khác biệt có chăng ở yếu tố giá bán. Người tiêu dùng cần phải được tuyên truyền rằng đây là một sản phẩm chất lượng cao, khác cái cũ để chấp nhận giá bán mới”.

“Nếu là giám đốc DN tôi sẽ ủng hộ nghị định này vì đó là ủng hộ cho sự phát triển lâu dài. Chúng ta không thể mãi bán một sản phẩm chất lượng thấp như vậy được”.

Sự quyết liệt của Vasep

Trong khi đó, ông Nguyễn Hữu Dũng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep) lại cho rằng “lùi thời hạn chưa giải quyết được vấn đề”.

Nói sâu hơn về quá trình ra đời Nghị định cá tra cũng như những con số cụ thể nêu trên về tỷ lệ mạ băng và độ ẩm, ông Dũng đã tiết lộ một biên bản “Kết luận của Hội đồng đánh giá cảm quan sản phẩm cá tra phi lê đông lạnh”.

Đây là biên bản của Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản (Nafiquad), thuộc Bộ NN&PTNT sau khi tổ chức một hội đồng đánh giá về hàm lượng nước trong sản phẩm cá tra có sự tham gia của DN và các nhà khoa học.

“Kết quả cho thấy, miếng cá tra có hàm lượng tăng trọng 25% có giá trị cảm quan tốt nhất. Tức là thêm 1/4 lượng nước nữa vào miếng cá tra sẽ làm tăng chất lượng và giá trị cảm quan đối với miếng cá. Đây là một trong những kết quả đánh giá mang tính kỹ thuật để làm căn cứ đưa ra những con số cụ thể trong Nghị định về cá tra. Vậy mà, Bộ lại quy định hàm lượng ẩm 83% và tỉ lệ mạ băng 10% thì gần như không có tăng trọng. Còn Nafiqad thì đã “ỉm” đi biên bản này!” , ông Dũng bức xức.

Vasep cho rằng những quy định cứng nhắc về hàm lượng ẩm và tỉ lệ mạ băng là không có căn cứ. Theo ông Dũng, những gì liên quan tới an toàn thực phẩm thì nhà nước cần quy định chặt chẽ. Còn những vấn đề về chất lượng sản phẩm thì nên để DN và thị trường quyết định, Nhà nước có thể khuyến khích, hướng dẫn, nhưng không nên áp đặt.

Chia sẻ thêm về vị thế của con cá tra Việt Nam, ông Dũng cho hay cá tra không tạo ra một mảng thị trường riêng, nó chỉ là một sản phẩm thay thế trong mảng thị trường cá thịt trắng thế giới.

Cụ thể, thị trường cá thịt trắng trên thế giới chủ yếu là những loại cá khai thác ở vùng biển lạnh và người tiêu dùng cũng ưa thích cá biển hơn. Tuy nhiên, thời gian qua, Tổ chức Nông Lương Thế giới (FAO) quy định quản lý chặt chẽ việc khai thác ở biển, cá tra có cơ hội lấp chỗ trống. Từ năm 2002 đến năm 2008 cá tra Việt Nam xuất khẩu mạnh.

Nhưng ông Dũng dự đoán, chỉ khoảng 6 năm nữa, sau khi các nguồn lợi biển đã ổn định trở lại, FAO có thể sẽ dỡ bỏ quy định về khai thác biển, lúc đó cá tra có thể phải trả lại sân chơi.

“Chúng ta không thể ngộ nhận là Việt Nam độc quyền về ngành cá tra và muốn làm gì cũng được”, ông Dũng nói.

Một điểm bất cập khác trong Nghị định 36 theo Vasep là DN phải đăng ký với Hiệp hội Cá tra Việt Nam, sau khi ký hợp đồng với nhà nhập khẩu. Hiệp hội này sẽ xem DN có đáp ứng những tiêu chí trong nghị định hay không trước khi đồng ý để DN xuất khẩu. Thông tin từ Hiệp hội Cá tra sẽ là một trong những thủ tục thông quan cho các lô hàng cá tra.

Ông Nguyễn Hữu Dũng cho rằng những quy định này không giúp ích gì cho DN và người quản lý. Mỗi container cá tra (20 tấn/container), các DN sẽ phải nộp cho Hiệp hội Cá tra khoản phí 100 nghìn đồng, trong khi mỗi năm Việt Nam xuất khẩu khoảng 650 nghìn tấn cá. Nhưng chưa nói tới khoản phí này, DN cũng mất nhiều thời gian để hoàn thành các thủ tục giấy tờ cho Hiệp hội.

“Tại sao Bộ NNPTNT lại đẻ thêm những phiền hà mới cho DN trong khi Thủ tướng Chính phủ đang yêu cầu giảm các thủ tục hành chính?” – ông Dũng bày tỏ.

Hiện,Vasep vẫn kiên trì với đề xuất thay đổi hai quy định trong Nghị định 36. Thứ nhất, thay vì quy định cứng nhắc tỉ lệ 10% và 83% thì nên quy định DN phải dán nhãn sản phẩm ghi rõ về hàm lượng, công khai thông tin về chất lượng sản phẩm và DN phải chịu trách nhiệm với thông tin đó. Đồng thời, bỏ quy định đăng ký hợp đồng với Hiệp hội Cá tra trước khi xuất khẩu.

Rõ ràng Nghị định 36 được ban hành với mong muốn nâng cao chất lượng cá tra xuất khẩu. Song ý kiến của Vasep cũng rất đáng lưu tâm, bởi hơn ai hết, doanh nghiệp phải quan tâm đến việc tiêu thụ sản phẩm và để làm được điều đó, họ phải đáp ứng yêu cầu về chất lượng của thị trường. Những doanh nghiệp nào không đáp ứng được sẽ bị loại khỏi cuộc chơi./.

Theo chinhphu.vn