Bất động sản công nghiệp “miễn dịch” với Covid-19

11:21 | 13/06/2021 Print
(TBTCVN) - Những nhà đầu tư nước ngoài sẽ không thay đổi quyết định di dời chuỗi cung ứng tới Việt Nam dù lần bùng phát trở lại của Covid-19 tác động mạnh tới các khu công nghiệp. Covid-19 chỉ làm chậm kế hoạch tới Việt Nam của nhà máy và chuỗi cung ứng này.

bds

Bất động sản công nghiệp hấp dẫn các nhà đầu tư bất chấp ảnh hưởng dịch bệnh.

Sức “đề kháng” của bất động sản công nghiệp

Đã từng có những lo ngại về sức hấp dẫn của bất động sản khu công nghiệp khi những ổ dịch lớn bùng phát tại các khu công nghiệp như Bắc Giang, Bắc Ninh. Đáng lo ngại hơn khi quy mô và tính chất phức tạp của làn sóng Covid-19 mới nguy hiểm và phức tạp hơn so với những lần trước. Tuy nhiên, bất chấp ảnh hưởng của dịch, bất động sản công nghiệp tiếp tục trở thành phân khúc có kết quả tăng trưởng lạc quan.

Dẫn chứng về khả năng “miễn nhiễm” của bất động sản công nghiệp, báo cáo của Savills Việt Nam nêu rõ, mặt bằng chi phí thuê đất khu công nghiệp được ghi nhận đã tăng cao đưa phân khúc này trở thành trở điểm sáng hiếm hoi trong tình hình thị trường hiện tại. Đáng chú ý, bất động sản công nghiệp đang được săn đón bởi các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong bối cảnh nguồn cung hạn chế tại các phân khúc khác như nhà ở thương mại, văn phòng, bán lẻ…

Báo cáo của Hiệp hội Môi giới bất động sản Việt Nam (VARS) cũng nhận định, thị trường bất động sản công nghiệp đang chứng kiến sự bùng nổ mạnh mẽ về nguồn cầu tại nhiều tỉnh, thành phố, tiêu biểu như: Long An, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Định, Thanh Hóa, Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang... Theo thống kê của VARS, hiện có 260 khu công nghiệp đang hoạt động và 75 khu công nghiệp đang xây dựng. Tỷ lệ lấp đầy tại các khu công nghiệp Việt Nam đạt bình quân trên 70%, giá thuê nhà xưởng bình quân trên cả nước khoảng 60.000 – 80.000 đồng/m2 và giá mua đất khu công nghiệp đã có hạ tầng dao động từ 3 - 5 triệu đồng/m2.

Các chỉ số tăng trưởng đầy lạc quan của lĩnh vực bất động sản công nghiệp cho thấy, sức nóng của phân khúc này chưa hề giảm trước tác động của làn sóng Covid-19 mới.

Đánh giá về bối cảnh hiện tại, bà Trang Bùi - Giám đốc Cấp cao thị trường Việt Nam của JLL khẳng định, bất động sản công nghiệp không giảm sức hấp dẫn bởi đây là lĩnh vực chủ lực và hội tụ nhiều điểm vàng trong mắt các nhà đầu tư ngoại. Theo bà Trang Bùi, dịch bệnh chỉ làm chậm kế hoạch di dời của các nhà máy, chuỗi cung ứng vào Việt Nam.

Mặt khác, theo bà Trang Bùi, để đưa tới quyết định lựa chọn khu công nghiệp tại Việt Nam, nhà đầu tư sẽ phải xem xét dựa trên rất nhiều yếu tố, từ quỹ đất đó ra sao, nằm ở khu công nghiệp nào. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng phải khảo sát rất nhiều khu công nghiệp, đánh giá các dịch vụ logistics, chuỗi cung ứng đi kèm cũng như đặc điểm thị trường mà họ đang nhắm đến xuất khẩu hay tiêu thụ. Họ buộc phải tìm hiểu khá kỹ mới đưa ra quyết định. Thế nên, dịch bệnh chỉ tác động đến kế hoạch di dời, không ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn điểm đến của nhà máy, chuỗi cung ứng.

Lực đỡ tăng trưởng

Khả năng miễn nhiễm với dịch bệnh cùng sức hút sẵn có khiến bất động sản công nghiệp được dự báo sẽ hứa hẹn tăng trưởng tích cực trong năm 2021. Các chuyên gia cho rằng, sức hấp dẫn sẵn có của lĩnh vực này chính là lực đỡ để bất động sản công nghiệp tiếp tục vượt qua “sóng gió” trong “cơn bão” Covid-19.

Lý giải cho sức hấp dẫn của bất động sản công nghiệp, ông Troy Griffiths - Phó Tổng giám đốc Savills Việt Nam phân tích, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đến thời điểm hiện tại chưa có dấu hiệu hạ nhiệt và nhiều doanh nghiệp đang tìm kiếm địa điểm mới để đa dạng hoá và đảm bảo nguồn cung.

Trong khi đó, Việt Nam được các doanh nghiệp lựa chọn là một điểm thay thế Trung Quốc nhờ vị trí liền kề cũng như sự hội tụ nhiều lợi thế chiến lược, đặc biệt chi phí bất động sản công nghiệp rất cạnh tranh. Trên cơ sở đó, ông Troy khẳng định: “Bất động sản công nghiệp sẽ tiếp tục là “đứa con cưng” của ngành bất động sản nói chung, với nhu cầu cao và hoạt động thị trường vốn gia tăng”.

Còn theo bà Trang Bùi, Trung Quốc là cái nôi sản xuất lớn nhất thế giới với rất nhiều chuỗi cung ứng và khó hình thành một thị trường mới để thay thế đất nước này chỉ trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, với nhà đầu tư, họ luôn muốn phân bổ rủi ro trong kinh doanh bằng việc đặt các trụ sở nhà máy ở các nước. Ví dụ như nhà đầu tư muốn một phần nhà máy sản xuất tại Trung Quốc và một phần tại Việt Nam. Khi dịch bệnh tại Trung Quốc bùng phát, chuỗi cung ứng hàng hoá cho người tiêu dùng không bị đứt gãy vì họ đã có nhà máy tại Việt Nam. Chưa kể, những nhà đầu tư còn muốn hưởng lợi chính sách xuất khẩu tại các nước sở tại, như thuế xuất cho hàng hoá từ Việt Nam sang Mỹ thấp hơn từ Trung Quốc sang Mỹ.

Mặt khác, Giám đốc Cấp cao JLL chia sẻ thêm, trong kế hoạch mở rộng thị phần và tăng trưởng sản xuất, nhà đầu tư đang đứng trước bài toán giảm tính cạnh tranh của hàng hoá khi giá cho thuê nhà xưởng tại Trung Quốc đắt đỏ và thuế suất sang Mỹ cao. Ngược lại, Việt Nam có vị trí sát Trung Quốc, chi phí cho thuê kho bãi hợp lý, thấp hơn 30 - 50% so với một số nước khu vực. Đặc biệt, các khu công nghiệp ở miền Bắc đã có sẵn chuỗi cung ứng điện tử, điện lạnh, ô tô… Điều này sẽ giúp doanh nghiệp nước ngoài giảm chi phí khi kéo theo chuỗi cung ứng đi kèm.

Chính vì thế, JLL Việt Nam đánh giá, bất động sản công nghiệp Việt Nam còn nhiều cơ hội để tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ bởi đây là phân khúc sở hữu nhiều điểm vàng và yếu tố chủ lực.

TS. Nguyễn Trí Hiếu - chuyên gia kinh tế, cũng lạc quan cho rằng, tốc lực tăng trưởng của bất động sản công nghiệp sẽ còn đi lên nhờ tiềm năng sẵn có của một thị phần “vàng” trong mắt nhà đầu tư. Vị chuyên gia này dự báo, khi chương trình vaccine được đẩy mạnh tiêm chủng, dịch bệnh cơ bản kiểm soát, bất động sản công nghiệp sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ.

Tỷ lệ lấp đầy tại các khu công nghiệp tang

Cũng theo báo cáo của Savills Việt Nam, tỷ lệ lấp đầy ở khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc tăng so với cùng kỳ. Tại Hà Nội, tỷ lệ lấp đầy lên tới 90%, con số này ghi nhận ở Bắc Ninh là 95%, Hưng Yên là 89% và Hải Phòng là 73%. Ở khu vực phía Nam cũng ghi nhận tỷ lệ lấp đầy lớn, trên 70%, cụ thể, TP. Hồ Chí Minh là 88%, Bình Dương là 99%, Đồng Nai là 94%, Long An là 84%, Bà Rịa – Vũng Tàu là 79%.


Mai Linh

Mai Linh

© Thời báo Tài chính Việt Nam