Kinh doanh có trách nhiệm của doanh nghiệp tư nhân còn thấp

21:21 | 22/04/2021 Print
Nghiên cứu cho thấy, mức độ nhận thức về thực hành kinh doanh có trách nhiệm của các doanh nghiệp tại Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân trong nước còn thấp.

un

Đại diện UNDP tại Việt Nam phát biểu tại sự kiện. Ảnh: LV

Chiều 22/4, tại Hà Nội, Chương trình Phát triển của Liên Hợp quốc (UNDP) và Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam phối hợp tổ chức hội thảo công bố Nghiên cứu đánh giá nhận thức và tình hình thực hiện các thực hành kinh doanh có trách nhiệm của doanh nghiệp (DN) tại Việt Nam năm 2020.

Doanh nghiệp có vốn nhà nước có mức độ nhận thức cao nhất

Tại sự kiện, Đại sứ Thụy Điển tại Việt Nam Ann Mawe cho biết, kinh doanh có trách nhiệm đang là xu hướng toàn cầu và ngày càng có ảnh hưởng tới Việt Nam. Việc thực hiện các thực hành kinh doanh có trách nhiệm đang ngày càng trở nên cấp thiết, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hội nhậpngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới và sự phức tạp của chuỗi cung ứng toàn cầu, cũng như những thách thức mà xã hội phải đối mặt với phát triển bền vững.

Cũng theo Đại sứ Ann Mawe, mặc dù các quy định pháp lý của Việt Nam khá mạnh nhưng việc thực thi và hiệu quả trên thực tế còn hạn chế. Điều này được thể hiện rõ qua các phát hiện chính của nghiên cứu

Trình bày các phát hiện chính, ông Vũ Văn Tuấn (trưởng nhóm nghiên cứu) cho biết, mức độ nhận thức về thực hành kinh doanh có trách nhiệm của các DN tại Việt Nam, đặc biệt là các DN tư nhân trong nước còn thấp.

Mức độ nhận thức giữa các DN theo loại hình khác nhau (DN có vốn nhà nước, DN tư nhân trong nước, DN FDI) khá chênh lệch. DN có vốn nhà nước có mức độ nhận thức cao nhất, với 81% số DN có vốn nhà nước, con số ngày ở DN FDI là 69%; DN tư nhân trong nước có mức độ nhận thức thấp nhất , chỉ chiếm khoảng 47% số DN thuộc loại hình này. Mức độ nhận thức giữa DN nhỏ tương đối hẹp, chỉ ở mức 12%.

Mặc dù mức độ thực hiện kinh doanh có trách nhiệm khác nhau, hầu hết các DN không thực hiện các thực hành nằm ngoài phạm vi tuân thủ các quy định pháp luật của Chính phủ. Việc thực hiện các thực hành kinh doanh có trách nhiệm chủ yếu ở mức độ tuân thủ. Cụ thể, 62% DN tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật Việt Nam; 27% không tuân thủ đầy đủ; chỉ có 11% DN không chỉ tuân thủ quy định của pháp luật mà còn áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế.

Phát hiện này cho thấy sự nhất quán giữa nhận thức của DN về kinh doanh có trách nhiệm và việc triển khai thực tế của họ. Phần lớn các DN hiểu kinh doanh có trách nhiệm ít nhất là tuân thủ pháp luật, do đó họ tập trung đáp ứng nhiều nhất các yêu cầu, quy định của pháp luật.

Trong 3 nhóm thực hành kinh doanh có trách nhiệm về lao động, môi trường và quản trị, khía cạnh lao động được các DN hưởng ứng tích cực nhất, trong khi các khía cạnh còn lại chưa được quan tâm nhiều. Các DN cho biết, lĩnh vực lao động được ưu tiên hơn môi trường và quản trị do liên quan trực tiếp tới phúc lợi của con người và thu hút mối quan tâm lớn của cả cơ quản lý và công chúng nói chung.

Việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế còn hạn chế

Theo ông Vũ Văn Tuấn, về tổng thể, việc thực hiện kinh doanh có trách nhiệm của các DN thuộc mọi quy mô, loại hình và lĩnh vực là tích cực. Tuy nhiên, DN càng lớn và tham gia hội nhập toàn cầu càng nhiều thì mức độ thực hiện kinh doanh có trách nhiệm càng cao.

DN vừa và nhỏ trong nước thường ít tiếp xúc với thị trường quốc tế và có nguồn lực và năng lực tài chính, kỹ thuật hạn chế. Họ đã phải rất nỗ lực trong việc tuân thủ ngay cả những quy định tối thiểu về môi trường do pháp luật quy định. Ngược lại, DN có vốn nhà nước và DN FDI có nhiều cơ hội để tiếp cận các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế nên các DN này có áp lực phải thực hiện các thực hành kinh doanh có trách nhiệm để bảo đảm danh tiếng, quản lý rủi ro cũng như duy trì mối quan hệ với khách hàng quốc tế.

Nghiên cứu cũng cho thấy, thúc đẩy thực hành kinh doanh có trách nhiệm trong tương lai, các DN đã bắt đầu chú ý đến các tiêu chuẩn, hướng dẫn tiên tiến của quốc tế. Tuy nhiên, việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế còn hạn chế khi phần lớn DN (67%) không áp dụng bất kỳ tiêu chuẩn quốc tế nào.

Điển hình một số tiêu chuẩn đã được DN bắt đầu áp dụng như Hướng dẫn của Liên Hợp quốc về kinh doanh và quyền con người (4%), Mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp quốc (9%), Khung phát triển bền vững của Tổ chức tài chính quốc tế IFC (9%).

Một dấu hiệu tốt của việc thực hiện kinh doanh có trách nhiệm trong tương lai là phần lớn DN (60%) cho biết, họ có kế hoạch đẩy mạnh áp dụng thực hành kinh doanh có trách nhiệm trong tương lai.

Kết quả của nghiên cứu cũng cho thấy, vai trò dẫn dắt của Chính phủ trong việc thúc đẩy thực hiện kinh doanh có trách nhiệm cũng được các DN đề cao thông qua việc xác định Kế hoạch hành động quốc gia về kinh doanh có trách nhiệm là sự hỗ trợ cần thiết nhất cho DN. Tiếp đó là hỗ trợ kỹ thuật (hướng dẫn, tư vấn thực hiện);nâng cao nhận thức cộng đồng; kết nối với DN thực hành kinh doanh có trách nhiệm; tăng cường khung pháp lý và cuối cùng là hỗ trợ tài chính.

Thảo Miên

Thảo Miên

© Thời báo Tài chính Việt Nam