Năm 2019: Chi ngân sách đạt 93,5% dự toán

11:22 | 22/07/2021 Print
Sáng 22/7 tại Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, đã trình bày Tờ trình đề nghị Quốc hội phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2019.

BT

Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc trình bày tờ trình tại Quốc hội.

Thu NSNN năm 2019 tăng 10,1%

Theo tờ trình, quyết toán thu ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2019 là 1.553.611,589 tỷ đồng, tăng 10,1% (142.311,589 tỷ đồng) so với dự toán chủ yếu do tăng thu từ các khoản thu về nhà, đất, thu khác ngân sách, thuế xuất nhập khẩu và thu từ dầu thô; ngân sách trung ương (NSTW) tăng (gồm cả nguồn viện trợ) 33.450,42 tỷ đồng, ngân sách địa phương (NSĐP) tăng 108.861,169 tỷ đồng.

Năm 2019, số thu ở 3 khu vực kinh tế (doanh nghiệp (DN) nhà nước, DN FDI, DN tư nhân) không đạt dự toán được giao. Nguyên nhân là một số ngành có đóng góp số thu lớn cho NSNN như nhóm ngành khai thác dầu thô, sản xuất lắp ráp ô tô trong nước, sản xuất linh kiện điện thoại… tăng trưởng thấp hơn dự kiến, giảm so với năm trước. Số DN mới thành lập tăng, song chủ yếu là các DN vừa, nhỏ và siêu nhỏ được hưởng chính sách ưu đãi thuế theo quy định của luật nên số thuế đóng góp cho NSNN chưa đạt như khi xây dựng dự toán. Số DN chấm dứt kinh doanh, giải thể, tạm ngừng hoạt động ở mức cao,… Số nợ thuế đến ngày 31/12/2019 là 99.705 tỷ đồng, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2018.

Thu dầu thô đạt 56.250,723 tỷ đồng, tăng 26,1% (11.650,723 tỷ đồng) so với dự toán; chủ yếu do giá dầu thanh toán bình quân đạt 67,5 USD/thùng, tăng 2,5 USD/thùng so với giá xây dựng dự toán, sản lượng thanh toán vượt 5,8% (610 nghìn tấn) so với dự toán.

Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu quyết toán 214.239,255 tỷ đồng (đã bù trừ số hoàn thuế giá trị gia tăng là 133.042,869 tỷ đồng), vượt 25.039,255 tỷ đồng so với dự toán. Trong năm 2019 một số mặt hàng có thuế suất cao, số thu lớn tăng mạnh so với dự toán như than đá, ôtô nguyên chiếc, máy móc, thiết bị, phụ tùng, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, linh kiện phụ tùng ôtô..., nên giá trị kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng 7,7% so với năm 2018 và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế, tăng thu nợ đọng thuế, nợ thuế đã giảm so với năm trước, góp phần tăng thu NSNN. Số hoàn thuế GTGT theo thực tế phát sinh là 133.042,869 tỷ đồng, tăng 21.742,869 tỷ đồng so dự toán, được thực hiện theo quy định của Luật thuế GTGT.

Chậm triển khai, chi ngân sách giảm hơn 106.407 tỷ đồng

Về chi, dự toán chi NSNN là 1.633.300 tỷ đồng, quyết toán 1.526.892,949 tỷ đồng, bằng 93,5% (giảm 106.407,051 tỷ đồng) so với dự toán, chủ yếu do một số khoản chi triển khai chậm nên bị hủy dự toán hoặc chuyển nguồn sang năm sau chi tiếp theo quy định của Luật NSNN. Các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã thực hiện chi ngân sách bám sát mục tiêu, dự toán được giao, ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện các chính sách an sinh xã hội.

Quyết toán chi NSTW là 586.806,247 tỷ đồng, thấp hơn 11,7% so với dự toán; Quyết toán chi NSĐP là 940.086,702 tỷ đồng, thấp hơn 3,0% so với dự toán; số còn lại, một số khoản được chuyển nguồn sang năm sau sử dụng tiếp và một số nội dung hủy dự toán theo quy định của Luật NSNN.

Theo lĩnh vực, chi đầu tư phát triển quyết toán 420.779,784 tỷ đồng, bằng 98% (giảm 8.520,216 tỷ đồng) so với dự toán, chủ yếu là do chi đầu tư NSTW từ nguồn vốn ngoài nước giảm mạnh (giảm 7.563,333 tỷ đồng) so với dự toán, một số nội dung được chuyển nguồn sang năm sau giải ngân tiếp theo quy định của Luật Đầu tư công. Số chi đầu tư phát triển chiếm 27,6% tổng chi NSNN, bằng 7,0% GDP.

Chi trả nợ lãi 107.064,712 tỷ đồng, giảm 17.819,288 tỷ đồng so với dự toán, chủ yếu do dư nợ trái phiếu Chính phủ và lãi suất bình quân phải trả lãi trong năm 2019 thấp hơn dự toán.

Chi thường xuyên quyết toán 995.647,182 tỷ đồng, bằng 95,5% (giảm 47.168,818 tỷ đồng) so với dự toán. Dự toán chi thường xuyên bằng 63,85% dự toán chi NSNN theo đúng định hướng của Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội và Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Quyết toán chi thường xuyên giảm 47,2 nghìn tỷ đồng so với dự toán Quốc hội giao. Tuy nhiên, tỷ trọng quyết toán chi thường xuyên trên tổng quyết toán chi NSNN còn cao do trong quá trình tổ chức thực hiện đã tích cực đàm phán với các tổ chức quốc tế gia hạn thời hạn trả lãi các khoản vay, đã giảm chi trả lãi 17 nghìn tỷ đồng, giảm tỷ trọng chi trả lãi 0,65% (dự toán là 7,65%, quyết toán là 7%); (ii) Chi đầu tư được kéo dài sang năm sau thực hiện, cũng làm tổng quyết toán chi đầu tư giảm 8,5 nghìn tỷ đồng; (iii) Số chi thường xuyên được bổ sung từ nguồn dự phòng NSNN 18,6 nghìn tỷ đồng (chiếm khoảng 55% tổng dự phòng NSNN) cho các nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng, an ninh, khắc phục hậu quả hạn hán, thiên tai, bão lũ, dịch tả lợn Châu Phi, khôi phục sản xuất sau thiên tai, dịch bệnh và các nhiệm vụ đột xuất, cấp bách khác.

Bội chi ngân sách giảm còn 2,67% GDP

Với thu chi như vậy, quyết toán số bội chi NSNN năm 2019 là 161.490,73 tỷ đồng, bằng 2,67% GDP thực hiện, giảm 60.509,27 tỷ đồng (1% GDP) so với dự toán. Trong đó NSĐP quyết toán không bội chi, giảm so với dự toán 12.500 tỷ đồng; NSTW quyết toán 161.490,73 tỷ đồng, bằng 77,1% dự toán, giảm 48.009.27 tỷ đồng; giảm 0,8% GDP so với dự toán Quốc hội quyết định.

Trên cơ sở các nội dung đã báo cáo, Chính phủ trình Quốc hội xem xét, phê chuẩn quyết toán thu, chi NSNN năm 2019 với tổng số thu cân đối NSNN là 2.139.639,446 tỷ đồng, trong đó số thu NSNN theo dự toán là 1.553.611,589 tỷ đồng, thu chuyển nguồn năm 2018 sang năm 2019 là 434.356,624 tỷ đồng, thu từ kết dư năm 2018 là 150.570,478 tỷ đồng và thu từ quỹ dự trữ tài chính theo quy định của Luật NSNN là 1.100,755 tỷ đồng.

Tổng số chi cân đối NSNN là 2.119.541,763 tỷ đồng, trong đó chi NSNN theo dự toán là 1.526.892,949 tỷ đồng, chi chuyển nguồn sang năm 2020 là 592.648,814 tỷ đồng.

Bội chi NSNN 161.490,730 tỷ đồng, bằng 2,67% GDP (không bao gồm kết dư NSĐP 177.193,703 tỷ đồng). Số liệu trên chưa điều chỉnh giảm dự toán chi thường xuyên đồng thời tăng tương ứng dự toán chi đầu tư phát triển năm 2019 của Bộ Tài chính (2.240,21 tỷ đồng).

Hoàng Yến

Hoàng Yến

© Thời báo Tài chính Việt Nam