Sử dụng quỹ dự phòng tài chính thế nào?

09:46 | 10/10/2017 Print
Nghị định số 93/2017/NĐ-CP không quy định mức trần quỹ dự phòng tài chính và tổ chức tín dụng phải sử dụng quỹ dự phòng tài chính theo đúng quy định của Nghị định nêu trên.

tin dung

Quỹ dự phòng tài chính được trích lập từ lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp của Quỹ TDND.

Ông Nguyễn Khánh Hưng (Hà Nội) có tham khảo Khoản 3, Điều 8 Thông tư số 94/2013/TT-BTC ngày 8/7/2013 hướng dẫn chế độ tài chính đối với Quỹ tín dụng nhân dân (TDND) quy định về phân phối lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp như sau: “Trích 10% vào quỹ dự phòng tài chính. Số dư tối đa của quỹ dự phòng tài chính không vượt quá 25% vốn điều lệ của quỹ TDND".

Ông Hưng hỏi, trường hợp do giảm vốn điều lệ mà số dư quỹ dự phòng tài chính vượt trên 25% vốn điều lệ, vậy phần vượt này xử lý như thế nào? Có được phép chuyển sang quỹ khác hay không?

Về vấn đề này, Bộ Tài chính có ý kiến như sau:

Theo quy định tại Khoản 2, Điều 26 Thông tư số 04/2015/TT-NHNN ngày 31/3/2015 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về Quỹ TDND thì việc thay đổi vốn điều lệ thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước về những thay đổi phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.

Do đó, khi thay đổi giảm vốn điều lệ, Quỹ TDND phải được sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước.

Theo quy định tại Điều 80 Luật Các tổ chức tín dụng, Đại hội thành viên là cơ quan quyết định phân phối lợi nhuận và xử lý các khoản lỗ (nếu có) của Quỹ TDND. Quỹ dự phòng tài chính được trích lập từ lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp của Quỹ TDND. Do đó, trường hợp Quỹ TDND giảm vốn điều lệ (sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận), Đại hội thành viên Quỹ TDND quyết định phân phối phần vượt của quỹ dự phòng tài chính theo quy định.

Kể từ ngày 25/9/2017, Quỹ TDND thực hiện trích lập quỹ dự phòng tài chính theo quy định tại Khoản 2, Điều 22 Nghị định số 93/2017/NĐ-CP ngày 7/8/2017 của Chính phủ về chế độ tài chính đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và giám sát đầu tư vốn nhà nước vào tổ chức tín dụng, giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động của tổ chức tín dụng do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và tổ chức tín dụng có vốn Nhà nước.

Theo đó, Nghị định số 93/2017/NĐ-CP không quy định mức trần quỹ dự phòng tài chính và tổ chức tín dụng phải sử dụng quỹ dự phòng tài chính theo đúng quy định của Nghị định số 93/2017/NĐ-CP nêu trên.

Theo Chinhphu.vn

Theo Chinhphu.vn

© Thời báo Tài chính Việt Nam