Đẩy nhanh tiến độ các dự án cao tốc phía Nam

21:13 | 02/09/2021 Print
(TBTCVN) - Hiện nay, các dự án cao tốc khu vực phía Nam là Cầu Mỹ Thuận 2, cao tốc Vĩnh Hảo – Phan Thiết thuộc dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc – Nam phía Đông đang thi công đảm bảo tiến độ theo kế hoạch.

29

Các gói thầu của dự án Cầu Mỹ Thuận 2 đều vượt tiến độ.

Tuy nhiên, khó khăn về biến động giá vật liệu, vận chuyển máy móc, nhân lực do ảnh hưởng của dịch Covid-19 đòi hỏi có cần những giải pháp quyết liệt để tháo gỡ, tránh gây ảnh hưởng xấu đến tiến độ dự án...

Cơ bản đảm bảo tiến độ

Theo báo cáo của Ban Quản lý dự án (BQLDA) 7, Bộ Giao thông vận tải (GTVT), toàn bộ dự án đã bàn giao mặt bằng cho nhà thầu thi công 6,48/6,61km. 2 tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long đã cơ bản xây dựng xong khu tái định cư; công tác di dời công trình hạ tầng kỹ thuật đang được gấp rút triển khai và cố gắng hoàn thành trong quý III/2021.

Đề nghị ưu tiên tiêm vắc-xin
cho lực lượng thi công

Ban Quản lý dự án (BQLDA) 7 đã chủ động đề xuất với các địa phương ưu tiên tiêm vắc-xin cho lực lượng thi công. Hiện mới có khoảng 100 cán bộ, nhân viên được tiêm vắc-xin phòng chống dịch Covid-19, trong khi dự án có gần 2.000 người tham gia. Để ngăn ngừa sự đứt gãy về tiến độ, BQLDA đề nghị Chính phủ, Bộ Y tế và UBND tỉnh Bình Thuận có sự quan tâm đặc biệt, khẩn trương tiêm vắc-xin cho toàn bộ lực lượng này.

Gói thầu XL.01 thi công đường dẫn phía Tiền Giang đoạn Km101+126-Km104+190 (bao gồm cầu Rạch Sơn, An Hữu và cầu Cạn) được triển khai thi công từ 16/3/2020, dự kiến hoàn thành tháng 3/2022, đến nay đạt 63,31%, đáp ứng yêu cầu tiến độ.

Còn gói thầu XL.02 thi công đường dẫn cầu phía Tiền Giang đoạn Km104+190-Km105+454 (bao gồm cầu Mỹ Hưng), nhà thầu thi công đã khoan xong 26/26 cọc nhồi (đạt 100%), hiện tiến độ đạt 41,59%, đáp ứng yêu cầu kế hoạch hoàn thành vào tháng 8/2022.

Gói thầu XL.03A thi công thân trụ cầu, nhà thầu đang triển khai 2 mũi thi công chính ở 2 bờ Tiền Giang và Vĩnh Long, đã thi công xong 44/60 cọc khoan nhồi. Đơn vị đang tiếp tục thi công bệ trụ để dự án về đích đúng tiến độ vào tháng 12/2021. Gói thầu XL.03B gồm thi công thân trụ (từ T14 đến trụ T17) và kết cấu phần trên nhịp chính dây văng; kè gia cố bờ sông; hệ thống ATGT đường bộ; hệ thống điện chiếu sáng. Ngày 4/8/2021, BQLDA 7 đã ký hợp đồng với Liên danh nhà thầu Trung Nam EC – Trung Chính – VNCN EC sẽ thi công. Các nhà thầu sẽ triển khai thi công ngay sau khi hoàn thành gói thầu XL 03A, dự kiến ngày 1/11/2021.

Gói thầu XL.04 triển khai thi công từ 11/9/2020, dự kiến hoàn thành tháng 9/2022. Nhà thầu đang triển khai 6 mũi thi công, sản lượng gói thầu 197,7 /354.3 tỷ đồng, đạt 56,01%, vượt kế hoạch 5,013%.

Hiện tại, khối lượng hợp đồng đạt 1.027,86/1.802,368 tỷ đồng, đạt 57,03% giá trị hợp đồng (vượt 76,46 tỷ đồng so với kế hoạch, tương đương vượt 4,24%). Tổng giá trị giải ngân xây lắp đến thời điểm này là 1.116,31/1.802,368 tỷ đồng, đạt 61,94% giá trị hợp đồng (vượt 213,67 tỷ đồng so với kế hoạch tương đương vượt 11,85%).

Còn tại dự án cao tốc Vĩnh Hảo – Phan Thiết đi qua địa phận tỉnh Bình Thuận, đến thời điểm hiện tại, dự án đã huy động được 1.643 cán bộ và công nhân, tập kết được 860 đầu xe máy, thiết bị thi công; tổ chức được 63 mũi thi công xây dựng công trình. Dự án đã phát quan dọn dẹp mặt bằng đạt 100%; thi công đường công vụ 101/101Km (đạt 100%); đào vét hữu cơ nền đường đạt 92,6/101Km (đạt 91,64%); thi công đào, đắp nền đường đạt 57/101Km (đạt 56,43%); thi công cầu đạt 31/57 cầu (đạt 54,38%)...

Ngày 15/8/2021, nhà thầu đã tổ chức lao lắp thành công phiến dầm Super-T đầu tiên của công trình cầu Km138+710 thuộc gói thầu XL01. Đồng thời, các Gói thầu XL02, XL03 và XL04 cũng đã tiến hành thi công thử nghiệm lớp móng cấp phối đá dăm loại 1 với kết quả đáp ứng rất tốt các yêu cầu kỹ thuật... Giá trị sản lượng xây lắp thực hiện đến nay khoảng 850 tỷ đồng, đạt 94,5% so với kế hoạch đăng ký (899,27 tỷ đồng), đạt 14% so với tổng giá trị xây lắp của dự án (6.065,09 tỷ đồng).

Tháo gỡ khó khan về mặt bằng, vật lieu

Cũng theo BQLDA 7, nguồn cung cấp vật liệu đắp nền đường là vấn đề nan giải nhất hiện nay. Tổng nhu cầu vật liệu đắp của dự án Vĩnh Hảo – Phan Thiết (sau khi đã điều phối từ đào sang đắp) khoảng 9,2 triệu m3 nhưng hiện mới xử lý được khoảng 1,7 triệu m3 từ việc tận dụng vật đá xay nghiền (gói thầu XL01) làm vật liệu đắp và khoảng 1,45 triệu m3 từ các mỏ đã được cấp phép khai thác; nhu cầu còn thiếu khoảng 6,05 triệu m3 được dự kiến phân bổ như sau: các mỏ sắp được cấp phép khai thác đảm nhận khoảng 1,77 triệu m3. Phần nhu cầu còn lại khoảng 4,28 triệu m3 sẽ do các mỏ đề nghị bổ sung đảm nhận.

Để đảm bảo đảm bảo phòng chống dịch Covid-19, vừa giữ vững ổn định sản xuất, đảm bảo tiến độ thi công và kế hoạch giải ngân vốn đầu tư công, đơn vị đã quán triệt: Ưu tiên hàng đầu là đảm bảo an toàn về tính mạng cho toàn thể cán bộ, viên chức và người lao động trên công trường; tránh lây nhiễm dịch bệnh ra cộng đồng và xã hội, kiên quyết xử lý người đứng đầu đơn vị nếu không có giải pháp và hành động phòng chống dịch bệnh.

Công tác huy động nhân sự (nhất là nhân sự có trình độ cao) đến công trường cũng gặp nhiều khó khăn, bị động và chậm trễ do phải áp dụng các biện pháp phòng dịch. Nguồn cung vật liệu gặp khó khăn và không ổn định, do việc khai thác, sản xuất, vận chuyển bị ảnh hưởng của dịch bệnh.

Các tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long và một số tỉnh Nam Bộ áp dụng giãn cách xã hội nên việc tập kết nguồn đất đắp nền đường từ các mỏ khai thác tại Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang vận chuyển về công trường gặp khó khăn. Việc huy động máy móc, thiết bị từ Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh đến công trường để triển khai thi công cũng bị trở ngại. Giá thép cũng rất đáng lo ngại vì đội giá so với lúc đấu thầu quá cao. Lúc đấu thầu thép 12.000 đồng/kg, còn hiện tại làm đại trà thì giá lên đến 19.000 đồng/kg.

Để tháo gỡ các khó khăn vướng mắc, đảm bảo tiến độ thi công công trình, BQLDA kiến nghị các địa phương (Tiền Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương,...) tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn trong việc vận chuyển vật liệu, vật tư, thiết bị đến công trường xây dựng…

Cần tạo cơ chế đặc thù, tháo gỡ khó khăn về nguồn vật liệu

Để giải quyết những tồn tại, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết số 60/NQ-CP ngày 16/6/2021, thực sự tạo “cơ chế đặc thù” trong việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về nguồn vật liệu cho dự án thành phần đầu tư xây dựng đoạn Vĩnh Hảo – Phan Thiết nói riêng và toàn bộ dự án xây dựng đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông nói chung, BQLDA 7 đã kiến nghị với Bộ GTVT xem xét và báo cáo Thủ tướng Chính phủ sớm quan tâm xem xét những tồn tại, vướng mắc khi thực hiện Nghị quyết số 60/NQ-CP ngày 16/6/2021. Đơn cử như, chỉ được khai thác khi có “đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về khoáng sản” có nghĩa là vẫn phải thực hiện các bước (10 bước với thời gian thực hiện khoảng 10 tháng) như thăm dò, phê duyệt trữ lượng, môi trường, chủ trương đầu tư, thiết kế, cấp quyền khai thác, thuê đất….

Từ đó, Chính phủ trình Quốc hội xem xét và chấp thuận được miễn thủ tục cấp phép khai thác thông qua việc cho áp dụng Luật Khoáng sản đối với khu vực khoáng sản mới (chưa cấp phép thăm dò, khai thác) được cấp cho dự án đường cao tốc theo “cơ chế đặc thù” nhằm loại bỏ toàn bộ những thủ tục nêu trên, nhanh chóng đưa các mỏ vào khai thác phục vụ dự án.

Đồng thời, BQLDA cũng kiến nghị Bộ GTVT kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cũng xem xét bổ sung Nghị quyết số 60/NQ-CP với nội dung “UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi dự án đường cao tốc đi qua được phê duyệt bổ sung vào quy hoạch khai thác các khu vực khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường theo đề nghị của đại diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay đại diện chủ đầu tư”; “Đối với các mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường (trừ cát, sỏi lòng sông, cửa biển) đã cấp phép, đang hoạt động, còn thời hạn khai thác, được phép quyết định nâng công suất không giới hạn so với công suất ghi trong giấy phép khai thác (có thể tăng trữ lượng đã cấp phép) nếu đảm bảo điều kiện về dự trữ, môi trường và an toàn khai thác mà không phải lập dự án đầu tư điều chỉnh, đánh giá tác động môi trường (báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc kế hoạch bảo vệ môi trường) hoặc giấy xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường nhưng không đáp ứng yêu cầu về an toàn, bảo vệ môi trường trong khai thác”, nhằm phát huy cao nhất năng lực phục vụ của các mỏ đối với dự án trọng điểm quốc gia này.

Trí Dũng

Trí Dũng

© Thời báo Tài chính Việt Nam