Thu 4 tháng đạt gần 40% dự toán năm
Tổng thu (NSNN) thực hiện tháng 4 ước đạt 139,1 nghìn tỷ đồng, bằng 8,6% dự toán, bằng 82,4% mức thu bình quân quý I (thấp hơn khoảng 29,7 nghìn tỷ đồng); trong đó: Thu nội địa ước đạt 113 nghìn tỷ đồng, bằng 8,5% dự toán, bằng 79,6% mức thu bình quân quý I (giảm gần 29 nghìn tỷ đồng). Thu từ dầu thô ước đạt 5,5 nghìn tỷ đồng. Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 20,6 nghìn tỷ đồng, trên cơ sở tổng số thu thuế đạt 30,4 nghìn tỷ đồng, bằng 7,15% dự toán, bằng 98,9% mức thu bình quân quý I; hoàn thuế giá trị gia tăng theo chế độ trong tháng khoảng 9,8 nghìn tỷ đồng.
Sở dĩ số thu nội địa trong tháng 4 giảm so với các tháng trước, chủ yếu do trong tháng 1 đã tập trung thu vào ngân sách thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và lợi nhuận còn lại phát sinh quý IV/2022, phần chênh lệch còn phải nộp theo quyết toán thuế năm 2022.
Đồng thời, tăng trưởng kinh tế những tháng đầu năm thấp hơn dự kiến, hoạt động sản xuất - kinh doanh của một số ngành công nghiệp gặp khó khăn; kết hợp với thực hiện chính sách gia hạn thuế, tiền thuê đất theo Nghị định số 12/2023/NĐ-CP ngày 14/4/2023 của Chính phủ tác động giảm thu ngân sách trong tháng 4 (tổng số đã gia hạn đến hết tháng 4 khoảng 38 nghìn tỷ đồng).
Nguồn: Bộ Tài chính Đồ họa: Văn Chung |
Lũy kế 4 tháng thu NSNN ước đạt 645,4 nghìn tỷ đồng, bằng 39,8% dự toán, bằng 95% so cùng kỳ năm 2022 (thu ngân sách trung ương ước đạt khoảng 42,9% dự toán; thu ngân sách địa phương ước đạt khoảng 36,3% dự toán). Trong đó, thu nội địa ước đạt 538,8 nghìn tỷ đồng, bằng 40,4% dự toán, bằng 98% so cùng kỳ năm 2022.
Lũy kế thu từ dầu thô 4 tháng ước đạt 21,9 nghìn tỷ đồng, bằng 52,2% dự toán, giảm 9,6% so cùng kỳ năm 2022. Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt gần 84,7 nghìn tỷ đồng, bằng 35,4% dự toán, giảm 19,9% so cùng kỳ năm 2022, trên cơ sở: tổng số thu thuế ước đạt 122,7 nghìn tỷ đồng, bằng 28,9% dự toán, giảm 18,1% so cùng kỳ; hoàn thuế giá trị gia tăng theo chế độ khoảng 38 nghìn tỷ đồng, bằng 20,4% dự toán.
Có 8/12 khoản thu đảm bảo tiến độ dự toán
Mặc dù số thu nội địa 4 tháng đầu năm đạt khá so dự toán, nhưng qua phân tích cho thấy, số thu hàng tháng có xu hướng giảm (thu tháng 1 đạt 16,1%; tháng 2 đạt 7,1%; tháng 3 đạt 8,6%; ước thực hiện tháng 4 đạt 8,5% dự toán). Không kể thuế TNDN, thu cổ tức, lợi nhuận còn lại, thu chênh lệch thu - chi của Ngân hàng Nhà nước, thì số thu nội địa 4 tháng bằng khoảng 88,7% so với cùng kỳ năm 2022.
Có 8/12 khoản thu đảm bảo tiến độ dự toán (trên 34% dự toán), trong đó thu từ 3 khu vực kinh tế (chiếm 53,3% dự toán thu nội địa) ước đạt 42% dự toán, tăng 2,4% so cùng kỳ, tuy nhiên nếu loại trừ thuế TNDN, số thu của 3 khu vực này giảm 8,5% so cùng kỳ; thuế thu nhập cá nhân (TNCN) ước đạt 42,4% dự toán; thu từ hoạt động xổ số kiến thiết ước đạt 49,2% dự toán; thu cổ tức, lợi nhuận, lợi nhuận sau thuế, chênh lệch thu - chi của Ngân hàng Nhà nước ước đạt 81,5% dự toán; thu khác ngân sách ước đạt 77,3% dự toán...
Thu về ngân sách gần 4 nghìn tỷ đồng qua thanh kiểm tra Tính đến ngày 15/4/2023, cơ quan thuế đã thực hiện 9,8 nghìn cuộc thanh tra, kiểm tra; kiểm tra 102,9 nghìn hồ sơ khai thuế của doanh nghiệp; qua đó kiến nghị xử lý tài chính 15,12 nghìn tỷ đồng, trong đó thu nộp ngân sách nhà nước khoảng 3,9 nghìn tỷ đồng, giảm khấu trừ và giảm lỗ gần 11,22 nghìn tỷ đồng; đôn đốc thu hồi và xử lý nợ đọng thuế ước đến hết tháng 4 đạt khoảng 14,9 nghìn tỷ đồng. Cơ quan hải quan đã thực hiện 793 cuộc thanh tra, kiểm tra, xử lý thu vào ngân sách 271,4 tỷ đồng; phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, bắt giữ 5,1 nghìn vụ vi phạm với giá trị hàng hóa 1,45 nghìn tỷ đồng, xử lý thu vào ngân sách 267 tỷ đồng. |
Có 4 khoản thu tiến độ thu đạt thấp so dự toán là: thu thuế bảo vệ môi trường (ước đạt 16,8% dự toán, bằng 49,7% so cùng kỳ); các loại phí, lệ phí (ước đạt 32,2% dự toán, bằng 91,4% so cùng kỳ); các khoản thu về nhà, đất (chiếm 13,3% dự toán thu nội địa; ước đạt 20,9% dự toán, bằng 46,6% so cùng kỳ); thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (ước đạt 25% dự toán, bằng 108,7% so cùng kỳ).
Về số thu trên địa bàn, ước tính có 25/63 địa phương thực hiện thu nội địa 4 tháng đạt trên 38% dự toán; 16/63 địa phương có tăng trưởng thu so với cùng kỳ, trong khi có tới 47 địa phương thu thấp hơn so với cùng kỳ.
Thời gian qua, cùng với nỗ lực thực hiện các giải pháp nhằm góp phần tăng thu về ngân sách, cơ quan thuế, hải quan tiếp tục triển khai các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất đã ban hành để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân. Tổng số tiền đã miễn, giảm, gia hạn ước tính đến hết tháng 4 khoảng 56,32 nghìn tỷ đồng (miễn, giảm khoảng 18,32 nghìn tỷ đồng; gia hạn khoảng 38 nghìn tỷ đồng).
Đồng thời, cơ quan thuế, hải quan tăng cường công tác quản lý thu, thanh tra, kiểm tra thuế, rà soát các nguồn thu, chống thất thu, phấn đấu hoàn thành vượt dự toán thu để bù đắp số giảm thu do thực hiện chính sách; kiểm soát chặt chẽ hoàn thuế giá trị gia tăng đảm bảo đúng chính sách, quy định của pháp luật; đôn đốc xử lý thu hồi nợ đọng thuế. Cơ quan thuế cũng quản lý, đôn đốc thu nộp kịp thời đối với hoạt động kinh doanh bất động sản, chứng khoán, giao dịch thương mại điện tử, thu từ các nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam.
Cân đối ngân sách trung ương và các cấp được đảm bảo Về chi ngân sách nhà nước (NSNN), theo Bộ Tài chính, tổng chi cân đối NSNN tháng 4 ước đạt 135,3 nghìn tỷ đồng; luỹ kế chi 4 tháng đạt 500,3 nghìn tỷ đồng, bằng 24,1% dự toán, tăng 6,1% so cùng kỳ năm 2022, trong đó: chi đầu tư phát triển ước đạt khoảng 110,6 nghìn tỷ đồng, bằng 15,2% dự toán Quốc hội quyết định, bằng 15,65% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, tăng 15,6% so cùng kỳ năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 tỷ lệ giải ngân đạt 18,48% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao); chi trả nợ lãi ước đạt gần 34 nghìn tỷ đồng, bằng 33% dự toán, giảm 3,3%; chi thường xuyên ước đạt 355,4 nghìn tỷ đồng, bằng 30,3% dự toán, tăng 4,5% so cùng kỳ năm 2022. Các nhiệm vụ chi ngân sách trong 4 tháng đầu năm được thực hiện theo dự toán, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước và thanh toán các khoản nợ đến hạn, đảm bảo kinh phí phòng, chống dịch, các nhiệm vụ chi an sinh xã hội, chăm lo cho các đối tượng hưởng lương, lương hưu và trợ cấp xã hội từ NSNN. Ngân sách trung ương đã chi từ dự phòng bổ sung cho các địa phương gần 500 tỷ đồng kinh phí phòng, chống dịch và hỗ trợ người dân gặp khó khăn do dịch Covid-19, hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh theo quy định. Bên cạnh đó, đã thực hiện xuất cấp 18,3 nghìn tấn gạo dự trữ quốc gia để khắc phục hậu quả mưa lũ, cứu trợ, cứu đói cho nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán và giáp hạt đầu năm. Riêng về chi đầu tư phát triển, tổng số kế hoạch vốn năm 2023 Thủ tướng Chính phủ đã giao khoảng 707 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, tổng hợp đến thời điểm báo cáo, các địa phương đã giao kế hoạch vốn đầu tư của địa phương tăng thêm (từ các nguồn tăng thu, kết dư ngân sách địa phương,…) khoảng 47,52 nghìn tỷ đồng so với kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ giao. Cân đối ngân sách trung ương và ngân sách các cấp địa phương được đảm bảo. Tính đến ngày 25/4/2023, đã thực hiện phát hành gần 129,2 nghìn tỷ đồng trái phiếu chính phủ, kỳ hạn bình quân 12,51 năm, lãi suất bình quân 4 %/năm. |