Sửa những bất cập về xử lý nợ xấu

Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, việc xây dựng dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) (sửa đổi) nhằm hoàn thiện quy định và xử lý những vướng mắc, bất cập của pháp luật về TCTD; luật hóa để tạo hành lang pháp lý cho việc xử lý nợ xấu của các TCTD.

Xử lý nợ xấu: Tránh hành chính hóa quan hệ dân sự
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng trình bày báo cáo tại Quốc hội.

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Luật Các TCTD đã tạo hành lang pháp lý để kiểm soát an toàn hệ thống các TCTD. Các TCTD yếu kém được nhận diện và được cơ cấu lại, không để xảy ra đổ vỡ TCTD ngoài tầm kiểm soát. Các ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước vừa chủ động thực hiện tự cơ cấu lại vừa tích cực tham gia quá trình cơ cấu lại các TCTD yếu kém, duy trì vị trí chủ đạo, vai trò trụ cột trong việc giữ ổn định hệ thống, dẫn dắt thị trường và tiên phong thực hiện chủ trương, chính sách của Nhà nước nói chung và của NHNN nói riêng.

Liên quan đến xử lý nợ xấu, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, sau 5 năm thực hiện, các quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (Nghị quyết số 42) đã tạo ra khung khổ pháp lý cần thiết cho công tác xử lý nợ xấu của các TCTD, Công ty TNHH MTV quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC). Việc thực hiện Nghị quyết số 42 đã mang lại những chuyển biến tích cực trong công tác xử lý nợ xấu và góp phần không nhỏ vào kết quả công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020.

Tuy nhiên, qua 6 năm triển khai thực hiện, một số quy định tại Nghị quyết số 42 đã cho thấy hiệu quả và tác động tích cực tới quá trình xử lý nợ xấu của TCTD. Với quá trình được kiểm nghiệm từ thực tiễn và với những kết quả đạt được, những quy định này tại Nghị quyết số 42 cần được nghiên cứu để luật hóa tại dự thảo Luật Các TCTD (sửa đổi), đồng thời được rà soát để hoàn thiện thêm, đảm bảo khắc phục được các khó khăn, vướng mắc phát sinh trên thực tiễn.

Theo dự thảo luật, nợ xấu được áp dụng các quy định về xử lý nợ xấu tại Luật bao gồm: Nợ xấu của các TCTD bao gồm khoản nợ xấu đang hạch toán trong bảng cân đối kế toán của TCTD, khoản nợ xấu đã sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nhưng chưa thu hồi được nợ và đang theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Nợ xấu tổ chức mua, bán xử lý nợ xấu đã mua của TCTD nhưng chưa thu hồi được nợ.

Liên quan đến quy định về mua, bán nợ xấu của tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu, dự thảo Luật quy định việc tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu được mua khoản nợ xấu đang hạch toán trong, ngoài bảng cân đối kế toán của TCTD (bao gồm cả TCTD liên doanh và TCTD 100% vốn nước ngoài), bán nợ xấu cho pháp nhân, cá nhân; được thỏa thuận với TCTD phân chia phần giá trị còn lại (nếu có) của số tiền thu hồi được từ khoản nợ xấu sau khi trừ giá mua và các chi phí xử lý.

Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, việc luật hóa quy định về thủ tục thu giữ tài sản bảo đảm tại luật bảo đảm nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận tự nguyện, hợp pháp giữa TCTD và bên có tài sản bảo đảm, trong đó điều kiện tiên quyết là có sự đồng ý cho phép thu giữ tài sản của chủ tài sản. Bên cạnh đó, việc thu giữ tài sản bảo đảm không phải thu giữ “vô điều kiện” mà tổ chức thực hiện thu giữ phải tuân thủ pháp luật và các điều kiện thu giữ quy định tại Luật.

Dự thảo Luật bổ sung quy định về điều kiện thu giữ để đảm bảo chặt chẽ, bảo đảm quyền và lợi ích các bên, cụ thể: bổ sung quy định giải thích nội hàm khái niệm “thu giữ tài sản bảo đảm”; bổ sung điều kiện thu giữ tài sản bảo đảm chỉ khi biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ...

Phân loại nợ xấu để áp dụng cơ chế phù hợp

Liên quan đến quy định này, thẩm tra báo cáo của Chính phủ, Ủy ban Kinh tế cho rằng, quy định tại dự thảo Luật được xây dựng trên cơ sở một số quy định tại Nghị quyết số 42 đã được kiểm nghiệm trên thực tiễn, tạo cơ sở pháp lý nhằm xử lý nhanh nợ xấu, khơi thông nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế.

Xử lý nợ xấu: Tránh hành chính hóa quan hệ dân sự
Các đại biểu Quốc hội trong phiên họp sáng 5/6.

Tuy nhiên, Nghị quyết số 42 là nghị quyết thí điểm được ban hành trong bối cảnh nợ xấu cao, phức tạp và tập trung trong một thời gian nhất định, vì vậy, việc luật hóa các quy định của Nghị quyết số 42 cần được đánh giá kỹ lưỡng, thận trọng, đặt trong bối cảnh các quy định pháp luật hiện nay đã được hoàn thiện rõ ràng, đầy đủ hơn.

Do đó, Ủy ban Kinh tế đề nghị cần đánh giá tổng thể, khách quan bối cảnh hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với công tác xử lý nợ xấu, từ đó hoàn thiện các quy định, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, tránh hành chính hoá quan hệ dân sự, kinh tế, bảo đảm hài hòa, công bằng với các chủ thể tham gia quan hệ dân sự, kinh tế trên nguyên tắc chỉ luật hóa những nội dung phù hợp trong điều kiện bình thường.

Ủy ban Kinh tế đề nghị rà soát, cân nhắc kỹ lưỡng, phân loại nợ xấu để áp dụng cơ chế xử lý phù hợp, nhất là đối với các khoản nợ xấu được hạch toán trong bảng cân đối kế toán của TCTD nhưng chưa đến mức độ khó thu hồi hoặc cần phải xử lý tài sản bảo đảm hoặc nợ xấu của khoản vay không đúng quy định.

Về thủ tục thu giữ tài sản bảo đảm, nhiều ý kiến đề nghị cần thực hiện việc giao tài sản bảo đảm theo trình tự, thủ tục thông thường của pháp luật. Nghị quyết số 42 đưa ra các cơ chế hỗ trợ thu giữ tài sản bảo đảm với sự tham gia của cơ quan công an và ủy ban nhân dân các cấp nhằm thúc đẩy nhanh hơn xử lý các khoản nợ xấu lớn, tồn đọng là điểm nghẽn của nền kinh tế được xác định theo Nghị quyết số 42. Tuy nhiên, trong điều kiện bình thường và việc áp dụng pháp luật được thực hiện ổn định, lâu dài thì quy định như trên không còn phù hợp.

Một số ý kiến cho rằng việc quy định thủ tục thu giữ tài sản bảo đảm là cần thiết để xử lý được khó khăn, vướng mắc của TCTD trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, nhất là khi xử lý tố tụng qua tòa án mất nhiều thời gian, từ đó tác động tích cực cho nền kinh tế.

Có ý kiến đề nghị cần làm rõ bản chất, mục tiêu, điều kiện và phạm vi thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm và vai trò của cơ quan nhà nước tham gia trong việc thu giữ tài sản bảo đảm, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp và các luật có liên quan, tránh lạm dụng và gây tổn hại lợi ích hợp pháp của người đi vay.

Kiểm soát hoạt động tín dụng, chống lợi ích nhóm, sở hữu chéo

Luật Các TCTD (sửa đổi) cũng hướng đến bảo đảm an toàn hệ thống các TCTD; tăng cường các biện pháp thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước, đồng thời có sự tham gia của Thanh tra Chính phủ, Bộ Tài chính và các bộ, ngành để quản lý, kiểm soát hoạt động tín dụng, chống thao túng, lợi ích nhóm, sở hữu chéo; xử lý tình huống người gửi tiền rút tiền hàng loạt và có cơ chế hiệu quả để cơ cấu lại TCTD được kiểm soát đặc biệt.

Về quan điểm xây dựng Luật, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, việc xây dựng Luật Các TCTD (sửa đổi) cần bám sát quan điểm của Đảng và Nhà nước nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng, cơ cấu lại TCTD bảo đảm an toàn hệ thống, tăng cường tính minh bạch, công khai và phù hợp với nguyên tắc thị trường và thông lệ quốc tế tốt nhất, tạo thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng.