Đây là nhận định của chuyên gia quốc tế tại hội thảo tham vấn đánh giá tiềm năng và định hướng phát triển “Khu vực có biện pháp bảo tồn hiệu quả khác ngoài khu bảo tồn thiên nhiên” (OECM) vừa diễn ra tại Hà Nội, tiềm năng và phương hướng cho công tác bảo tồn OECM tại Việt Nam.

Việt Nam có nhiều dư địa phát triển các OECM

Tại Hội nghị lần thứ 15 các bên tham gia Công ước đa dạng sinh học (CBD) đã thông qua Khung đa dạng Sinh học toàn cầu Kunming - Montreal nhằm định hướng công tác bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học trên toàn cầu đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.

Phát triển bảo tồn đa dạng sinh học ngoài các khu bảo tồn thiên nhiên
Việt Nam có nhiều dư địa để phát triển các OECM. Ảnh minh họa

Một trong những mục tiêu chính của của Khung đa dạng Sinh học toàn cầu là kêu gọi thế giới bảo tồn 30% diện tích đất liền và biển của trái đất thông qua việc thành lập các khu bảo tồn và các OECM vào năm 2030 (Mục tiêu 30x30). Trong khi đó, ở Việt Nam hiện nay mới chỉ có 7% diện tích đất và dưới 2% diện tích biển của Việt Nam được bảo tồn. Việt Nam còn nhiều dư địa để phát triển các OECM.

OECM là một khu vực được xác định về mặt địa lý, không phải là khu bảo tồn, được quản trị và quản lý theo những phương thức nhằm đạt được kết quả tích cực và bền vững lâu dài về bảo tồn đa dạng sinh học nguyên vị, tại chỗ với các chức năng và dịch vụ hệ sinh thái liên quan và đôi khi bảo tồn cả các giá trị văn hóa, tinh thần, kinh tế xã hội và các giá trị có liên quan khác tại địa phương.

Theo ông Jake Brunner - Giám đốc IUCN (Liên minh Bảo tồn thiên nhiên quốc tế), Khu vực hạ lưu Mekong, thể chế hóa các OECM sẽ không chỉ giúp Việt Nam thực hiện cam kết quốc tế mà còn bảo vệ đa dạng sinh học của các sinh cảnh bị đe dọa như những vùng núi đá vôi độc lập, các vùng đồng cỏ ngập lũ theo mùa, các vùng bãi triều ven biển mà hiện nay còn chưa xuất hiện nhiều trong hệ thống các khu bảo tồn.

Trong khi các khu bảo tồn phải có mục tiêu chính là bảo tồn, thì các OECM có thể được quản lý với nhiều mục đích khác nhau nhưng phải đạt được mục tiêu bảo tồn hiệu quả và dài hạn. Việc thành lập các OECM phù hợp với chức năng nhiệm vụ của Bộ Tài nguyên và Môi trường và góp phần thúc đẩy bảo tồn nguyên vị đa dạng sinh học.

Thông tin về sự sẵn sàng của Việt Nam với cơ chế này, TS. Nguyễn Văn Tài - Cục trưởng Cục Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết, Chính phủ Việt Nam trong nỗ lực hợp tác với các đối tác phát triển quốc tế đã và đang hướng tới tăng cường công tác bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học dựa trên các OECM.

Việt Nam là một trong 168 bên tham gia Công ước đa dạng sinh học. Tại Việt Nam, khung pháp luật quy định việc thành lập và quản lý OECM như một cách tiếp cận bảo tồn mang tính sáng tạo đang được tiếp tục nghiên cứu và xây dựng.

Hoàn thiện khung pháp lý và các chính sách cho các OECM

Chia sẻ về việc phát triển các OECM tại Việt Nam, ông Nguyễn Văn Trí Tín - Giám đốc Chương trình Bảo tồn các loài hoang dã (WWF) tại Việt Nam cho rằng, việc thực hiện OECM tại Việt Nam cần được tiếp cận một cách toàn diện, đảm bảo sự tham gia chủ động của cấp cơ sở và cộng đồng địa phương.

WWF mong muốn phối hợp với các bên liên quan trong việc lựa chọn, thí điểm một vài mô hình OECM ở khu vực Trung Trường Sơn, đóng góp cho việc hoàn thiện khung pháp lý và các chính sách cho các OECM của Việt Nam trong những năm tới.

Phát triển bảo tồn đa dạng sinh học ngoài các khu bảo tồn thiên nhiên
Phát triển bảo tồn đa dạng sinh học ngoài các khu bảo tồn thiên nhiên. Ảnh minh họa

Bà Anja Barth - Cố vấn trưởng dự án của Cơ quan Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) tại Việt Nam cho biết, trong khuôn khổ các hoạt động hợp tác phát triển được tài trợ bởi Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát triển Cộng hòa LB Đức (BMZ) và Bộ Kinh tế và Hành động Khí hậu Đức (BMWK), một dự án được thực hiện triển khai hoạt động rà soát các OECM tiềm năng trên toàn tỉnh Quảng Ninh.

Quá trình thử nghiệm áp dụng 4 tiêu chí đã được quốc tế thông qua vào công tác xác định các OECM ở hai địa điểm là rừng giống Nui Hua và rừng phòng hộ Yên Lập của tỉnh Quảng Ninh đã cung cấp cơ sở cho các đề xuất quan trọng giúp định hướng quá trình xác định các OECM trong tương lai ở Việt Nam.

Một trong những đề xuất chính trong số đó là cần phải điều chỉnh các tiêu chí của IUCN và các công cụ đánh giá sao cho phù hợp với bối cảnh của Việt Nam, đặc biệt là tiêu chí về ranh giới của các OECM biển. Thực hiện các OECMs không chỉ có tiềm năng lớn cho việc mở rộng hệ thống khu vực bảo tồn hiện tại mà còn có thể đưa vào hệ thống này các loại khu vực bảo tồn khác.

Phương pháp này cũng tạo cơ hội cho Việt Nam tăng cường năng lực thực hiện các cam kết quốc tế của mình trong Công ước Đa dạng sinh học và Khung Đa dạng sinh học toàn cầu Kunming-Montreal.

“Trong giai đoạn tới, Việt Nam cần xây dựng bản đồ của những khu vực này và đề xuất các cơ chế quản lý và quản trị tổng thể. Với việc công nhận các OECM, Việt Nam sẽ đạt được bước tiến đáng kể đối với hệ thống các khu bảo tồn và bảo vệ. Đây chính là nền tảng để thực hiện các cam kết đầy tham vọng của Việt Nam trong Công ước Đa dạng sinh học của Liên hiệp quốc và thực hiện Mục tiêu 30x30 tại Việt Nam” - bà Anja Barth khuyến nghị.

Một trong những bài học thu được từ các kết quả nghiên cứu cho thấy cần phải thành lập ủy ban điều phối OECM ngay từ giai đoạn đầu. Với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, dự án của Cục Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học (Bộ Tài nguyên và Môi trường), Vụ Quản lý Rừng đặc dụng, phòng hộ (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã xác định được 9 hạng mục các khu vực là OECM tiềm năng.