Sớm sửa luật để khơi thông nguồn lực nhà nước tại doanh nghiệp
Cần trao quyền nhiều hơn cho doanh nghiệp để chủ động, đổi mới, sáng tạo và phát triển. Ảnh: TL

Sửa đổi căn bản Luật số 69

Báo cáo tại tọa đàm, Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) Bùi Tuấn Minh cho biết, Luật số 69 được ban hành đã tạo hành lang pháp lý cho việc đầu tư vốn nhà nước vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp; cơ chế, chính sách quản lý đã được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu đổi mới, hội nhập, tạo môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ, ổn định hơn cho hoạt động quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại cơ quan nhà nước và doanh nghiệp; cơ chế, chính sách đã tôn trọng và nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp cùng việc tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhà nước.

Tôn trọng nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm

Theo bà Đoàn Lê Thu Nga - Phó Trưởng Ban Pháp chế của Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông quân đội (Viettel), doanh nghiệp rất mong chờ Luật số 69 được sửa đổi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Đồng thời, đại diện Viettel đề nghị cần thể hiện rõ nét và cụ thể hóa một cách đầy đủ những nguyên tắc tiến bộ, phù hợp với thông lệ quốc tế về quản trị doanh nghiệp như nhà nước lấy mục tiêu, nhiệm vụ, hiệu quả đầu tư vốn tại doanh nghiệp làm tiêu chí đánh giá chủ yếu; vốn nhà nước sau khi đã đầu tư vào doanh nghiệp được xác định là tài sản/vốn của doanh nghiệp...

Tuy nhiên, qua tổng kết sau hơn 9 năm thực hiện Luật cho thấy, cần thiết phải nghiên cứu sửa đổi Luật này cho phù hợp với các chủ trương mới của Đảng, Nhà nước về quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, kịp thời khắc phục một số hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai.

Theo đó, Bộ Tài chính dự kiến đề xuất sửa đổi căn bản các nội dung của Luật số 69 thể hiện ở 6 nhóm chính sách mới.

Trong đó, có các chính sách về quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, xác định rõ nguyên tắc quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp đảm bảo nguyên tắc “lợi ích thì hài hòa, rủi ro thì chia sẻ”, bảo toàn, hiệu quả, công bằng, thị trường, linh hoạt và công khai, minh bạch. Tăng cường phân công, phân cấp ủy quyền cho hội đồng thành viên, hội đồng quản trị doanh nghiệp gắn với trách nhiệm giải trình của người đứng đầu, của lãnh đạo doanh nghiệp; trách nhiệm giám sát, kiểm tra của cơ quan, người đại diện chủ sở hữu vốn. Vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp phải được quản lý thống nhất, không phân biệt cấp quyết định thành lập.

Liên quan đến đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp, dự kiến sẽ quy định rõ vốn nhà nước sau khi đã đầu tư vào doanh nghiệp để thực hiện nghĩa vụ góp vốn chủ sở hữu nhà nước được xác định là tài sản/vốn của pháp nhân doanh nghiệp theo quy định của Bộ luật Dân sự, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, tự chủ trong hoạt động của pháp nhân là doanh nghiệp. Nhà nước thực hiện quản lý doanh nghiệp theo pháp nhân doanh nghiệp đầu tư vốn, không quản lý doanh nghiệp theo từng tài sản mà chủ sở hữu góp vốn điều lệ (đã chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp).

Ở chính sách về sắp xếp, cơ cấu lại vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Bộ Tài chính dự kiến đề xuất hướng dẫn cụ thể các nguyên tắc về sắp xếp, cơ cấu lại vốn nhà nước đã đầu tư tại doanh nghiệp (các quy định tại nghị định đã được thực hiện ổn định thời gian qua) và quy định rõ hình thức chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước giữa các cơ quan đại diện chủ sở hữu. Trong đó, quá trình sắp xếp, cơ cấu lại vốn nhà nước tại doanh nghiệp là quá trình thực hiện thường xuyên, liên tục.

Cần cách hiểu thống nhất trong thực hiện

Sớm sửa luật để khơi thông nguồn lực nhà nước tại các doanh nghiệp
Ảnh minh họa

Trao đổi tại cuộc tọa đàm, nhiều ý kiến đánh giá cao sự chuẩn bị kỹ lưỡng, tiếp thu nghiêm túc của cơ quan soạn thảo và tinh thần đổi mới, cải cách được thể hiện trong những nội dung chính sách. Các đại biểu đều nhất trí cho rằng cần sớm trình Quốc hội xem xét sửa đổi Luật.

Theo Phó Tổng Thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Đậu Anh Tuấn, bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, Luật số 69 còn có những điểm chưa rõ ràng như chưa phân định, tách bạch rõ chức năng quản lý nhà nước với chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp; chưa phân tách được vốn của Nhà nước với vốn doanh nghiệp, quyền của đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước với quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp…

Điều này khiến cho các tập đoàn, DNNN gặp nhiều khó khăn trong hoạt động. Mặt khác, tư duy quản lý phải bảo toàn vốn tạo ra nhiều tâm lý chần chừ trong kinh doanh, bỏ lỡ nhiều cơ hội. Nêu rõ, dự án Luật có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, Phó Tổng Thư ký VCCI Đậu Anh Tuấn kỳ vọng việc sửa đổi Luật sẽ khơi thông, khai thác hiệu quả nguồn lực Nhà nước rất lớn nằm tại các doanh nghiệp.

Cùng quan điểm, Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Hà Minh Hải cho rằng phạm vi điều chỉnh cần rà soát để bảo đảm tránh chồng chéo với các luật khác; cần làm rõ các nội hàm các khái niệm để có cách hiểu thống nhất trong triển khai thực hiện và trong thanh tra, kiểm tra; cần quy định rõ nguyên tắc thị trường và doanh nghiệp chịu trách nhiệm toàn diện về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình; cần trao quyền nhiều hơn cho doanh nghiệp để chủ động, đổi mới, sáng tạo và phát triển, hướng đến mục tiêu cuối cùng là bảo toàn và phát triển vốn.

Mở rộng đối tượng áp dụng để có chính sách quản lý thống nhất

Để phù hợp với Nghị quyết số 12-NQ/TW và yêu cầu quản lý, đầu tư, giám sát vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Bộ Tài chính dự kiến đề xuất sửa đổi, bổ sung đối tượng áp dụng tại dự thảo Luật sửa đổi Luật số 69.

Theo đó, đối tượng áp dụng gồm: Doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư trực tiếp; Doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư khác do doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư trực tiếp đầu tư vốn; Doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước thuộc các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; Cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn, người đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Người đại diện phần vốn của doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư trực tiếp tại các doanh nghiệp khác…

Theo ông Bùi Tuấn Minh - Cục trưởng Cục Tài chính Doanh nghiệp (Bộ Tài chính), Nghị quyết số 12-NQ/TW xác định DNNN là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối; được tổ chức và hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty TNHH.

Do đó, Nhà nước cần phải xây dựng một chính sách về chủ sở hữu của nhà nước đầu tư thống nhất, chính sách đó cần phải được tuân thủ một quy trình phù hợp và thống nhất trong tổ chức thực hiện.

Mặt khác, doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp đều vận dụng quy định pháp luật về quản lý, đầu tư vốn của nhà nước như cơ chế đối với doanh nghiệp có vốn nhà nước hiện hành, chỉ khác về cơ quan đại diện chủ sở hữu.

Hiện nay, các doanh nghiệp này chưa thuộc đối tượng áp dụng của Luật 69 nên quá trình quản lý còn có sự lúng túng chưa thống nhất. Một số vụ án tại các doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (xảy ra ở Bình Dương; TP.HCM…) đã cho thấy nếu không có quy định thuộc đối tượng áp dụng sẽ khó khăn trong quá trình tổ chức, quản lý vận hành vì về bản chất vốn đầu tư tại doanh nghiệp này có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, từ các tài sản nhà nước bàn giao.