Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công nhưng các thế lực thù trong, giặc ngoài không từ bỏ mưu đồ phá hoại, lật đổ. Bên cạnh đó, sự trống rỗng về tài chính, tiền tệ, hậu quả nặng nề sau nạn đói, nạn dốt, thiên tai, lại bị cô lập về chính trị và ngoại giao... chính là những khó khăn chồng chất, đặt chính quyền cách mạng non trẻ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong những ngày đầu mới ra đời ở vào một tình thế "ngàn cân treo sợi tóc".

Trước tình thế vận mệnh độc lập, tự do của dân tộc đứng trước nguy cơ mất - còn, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có hàng loạt chủ trương, sách lược sáng suốt, kịp thời để cứu nguy dân tộc và bảo vệ Nhà nước Dân chủ nhân dân. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã cho phát hành giấy bạc Việt Nam, vừa làm vũ khí sắc bén đấu tranh có hiệu lực trên mặt trận kinh tế, tài chính, tiền tệ, vừa đảm bảo cung cấp cho nhu cầu chi tiêu to lớn và cần kíp của xã hội, chủ yếu là quốc phòng.

Đồng chí Phạm Văn Đồng, Bộ trưởng Bộ Tài chính được giao nhiệm vụ chỉ đạo toàn bộ việc in và phát hành đồng bạc giấy Việt Nam. Ngày 15/11/1945, Cơ quan Ấn loát thuộc Bộ Tài chính được thành lập.

Cuối tháng 11/1945, Bộ trưởng Bộ Tài chính Phạm Văn Đồng đã triệu tập 4 họa sỹ danh tiếng: Mai Văn Hiến, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Văn Khanh, Nguyễn Huyến để nhận nhiệm vụ vẽ mẫu những tờ bạc đầu tiên. Sau 4 tháng miệt mài lao động, 4 loại bạc giấy: 1 đồng, 5 đồng, 20 đồng và 100 đồng đã được hoàn tất. Công tác in đồng bạc giấy được thực hiện rất khẩn trương và bí mật tại các Nhà in Nguyễn Ninh (phố Hàng Than), Nhà in Việt Hưng (phố Cửa Nam), Nhà in Ngô Tử Hạ (phố Lý Quốc Sư) và Nhà in Tau-pin (phố Lê Duẩn).

Di tích lịch sử cách mạng Nhà máy in tiền tại đồn điền Chi Nê (xã Cổ Nghĩa, huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà Bình).
Di tích lịch sử cách mạng Nhà máy in tiền tại đồn điền Chi Nê (xã Cổ Nghĩa, huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà Bình).

Ngày 31/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh cho phép ban hành đồng bạc giấy Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở vào. Việc phát hành do Ủy ban hành chính Trung Bộ tổ chức và điều khiển. Nơi đồng bạc giấy Việt Nam phát hành thí điểm đầu tiên là thị xã Quảng Ngãi vào ngày 3/2/1946. Sau đó đồng bạc giấy Việt Nam nhanh chóng lan ra thị trường cả nước. Tại Kỳ họp thứ hai tháng 11/1946, Quốc hội khóa I đã quyết định cho phát hành rộng rãi đồng bạc giấy trong toàn quốc.

Đồng bạc giấy Việt Nam một mặt in chữ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (chữ Quốc ngữ và chữ Hán) và hình Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một mặt in hình Nông - Công - Binh. Các loại bạc giấy đều có chữ số Ả Rập, chữ Quốc ngữ, chữ Hán, Lào, Campuchia chỉ mệnh giá. Các loại bạc giấy này có ký tên Bộ trưởng Bộ Tài chính (Phạm Văn Đồng hoặc Lê Văn Hiến) và Giám đốc Ngân khố Trung ương, do đó ngoài tên gọi là giấy bạc Cụ Hồ, nhân dân còn gọi là giấy bạc Tài chính.

Trong cuộc Kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng bạc giấy Việt Nam có mặt ở khắp mọi miền Tổ quốc, góp phần quyết định vào việc bảo đảm cung cấp cho nhu cầu to lớn về mọi mặt của cuộc kháng chiến.

Mô hình minh họa cán bộ và công nhân cơ quan Ấn loát Bộ Tài chính làm việc trong Nhà máy in tiền tại đồn điền Chi Nê, Hoà Bình.
Mô hình minh họa cán bộ và công nhân cơ quan Ấn loát Bộ Tài chính làm việc trong Nhà máy in tiền tại đồn điền Chi Nê, Hoà Bình.

Sự ra đời của những tờ giấy bạc Tài chính – giấy bạc Cụ Hồ không chỉ khiến địch hoang mang mà các nước trên thế giới cũng vô cùng kinh ngạc. Họ không hiểu tại sao một chính quyền non trẻ, vừa mới thành lập trong điều kiện vô cùng khó khăn lại có tiềm lực để phát hành tiền giấy. Sự việc sẽ không thể giải quyết nếu không có sự ủng hộ nhiệt tình của gia đình một nhà đại tư sản yêu nước lúc đó là Đỗ Đình Thiện, ông đã mua lại toàn bộ Nhà in Tô-panh của Pháp để hiến tặng Cách mạng.

Sau khi được ông Đỗ Đình Thiện tặng nhà máy in, những tờ giấy bạc đầu tiên của cách mạng nhanh chóng được phát hành vào đúng dịp Tết Bính Tuất năm 1946. Quân Tưởng và quân Pháp điên cuồng tìm mọi cách bao vây, cướp phá. Để đảm bảo an toàn, bí mật phục vụ cho kháng chiến trường kỳ, tháng 3/1946, Đồn điền Chi Nê của gia đình ông Đỗ Đình Thiện đã được Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh tin chọn làm nơi sơ tán Nhà máy in tiền. Vì lúc bấy giờ, đồn điền có vị trí chiến lược, có thể xuyên tuyến đường 21 vào Thanh Hóa hoặc ngược lên Tây Bắc. Về kinh tế, đồn điền lúc đó dồi dào lương thực, thực phẩm. Có những thời điểm công nhân nhà máy lên đến hơn 100 người.

Ngày 31/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh cho phép ban hành đồng bạc giấy Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở vào. Việc phát hành do Ủy ban hành chính Trung Bộ tổ chức và điều khiển. Nơi đồng bạc giấy Việt Nam phát hành thí điểm đầu tiên là thị xã Quảng Ngãi vào ngày 3/2/1946.

Trong buổi sơ khai của chính quyền cách mạng, nhà máy in tiền còn hết sức đơn giản. Máy móc chưa hiện đại nên cách thức in tiền rất thô sơ: in lần lượt từng màu, số sê-ri, sau đó mới cắt. Mệnh giá lớn được in ốp-sét, mệnh giá nhỏ được in bằng máy sốp, ti-pô. Các mệnh giá tiền được in bao gồm 100 đồng, 5 đồng, 2 đồng, 1 đồng, 5 hào, 2 hào, 1 hào. Tại nhà máy in tiền ở Đồn điền Chi Nê đã ra đời đồng bạc mệnh giá lớn nhất lúc bấy giờ là 100 đồng Việt Nam, còn được gọi là tờ bạc con trâu xanh vì một mặt in ảnh Bác Hồ, mặt còn lại in hình con trâu màu xanh và hai người nông dân khỏe mạnh đang làm ruộng. Sau khi in, cắt, đóng, đếm xong, tiền được cho vào hòm gỗ chất lên xe bò hoặc xe ngựa chuyển vào kho cất giữ rồi mới tỏa đi ra Bắc vào Nam.

Thời kỳ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần đến Đồn điền Chi Nê. Trong chuyến thăm nhà máy in tiền ngày 21/2/1947, Bác Hồ dặn dò: "Hiện nay kẻ thù của chúng ta đang tìm các cơ sở kháng chiến như nhà máy này để đánh phá. Các chú phải giữ gìn bí mật".

Không ngoài dự đoán của Bác, vào ngày 22/2/1947, thực dân Pháp đã thả 8 quả bom xuống Đồn điền Chi Nê. Cơ quan ấn loát bị trúng đạn, kho cà phê và kho vật liệu bị cháy. Sau khi nhà máy in tiền bị bắn phá, Bộ trưởng Lê Văn Hiến đã quyết định chuyển nhà máy lên Chiêm Hóa, Tuyên Quang để tiếp tục in tiền phục vụ cuộc kháng chiến và kiến quốc.

Trân trọng những giá trị lịch sử, những cống hiến và đóng góp của các thế hệ đi trước, trong nhiều năm qua, ngành Tài chính đã phối hợp với các địa phương trong cả nước gìn giữ, tôn tạo và phát huy giá trị lịch sử của các di tích gắn liền với lịch sử phát triển của ngành. Với nhà máy in tiền tại Đồn điền Chi Nê, Bộ Tài chính đã phối hợp với tỉnh Hòa Bình xây dựng hồ sơ đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia vào năm 2007. Bộ Tài chính cũng chủ trì xuất bản cuốn sách về Cuộc đời và những đóng góp cho ngành Tài chính của nhà tư sản Đỗ Đình Thiện và kiến nghị UBND TP. Hà Nội đặt tên con đường mang tên Đỗ Đình Thiện tại huyện Từ Liêm, TP. Hà Nội.