Ngày 24/3, tại tỉnh Đắk Lắk, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) tổ chức hội nghị phát triển giáo dục và đào tạo vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; triển khai Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 06/10/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Báo cáo về thực trạng giáo dục và đào tạo vùng Tây Nguyên giai đoạn 2011-2022, Thứ trưởng Bộ GDĐT Nguyễn Văn Phúc cho biết, trong 10 năm qua, hệ thống mạng lưới trường lớp học được củng cố và phát triển rộng khắp, đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của người dân. Về cơ bản, không còn xã trắng về giáo dục mầm non, mọi thôn bản đều có lớp mầm non. Tất cả các xã đều có trường tiểu học. Hầu hết các xã đã có trường THCS, các huyện đều có trường THPT. Nhiều địa phương đã xây dựng các trường THCS, THPT liên xã. Hiện toàn vùng có 3.984 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, thường xuyên.

Phát triển giáo dục vùng Tây Nguyên ngang mặt bằng chung cả nước
Quang cảnh hội nghị

Đáng chú ý khi tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi đến trường của Tây Nguyên đạt 99,6% - cao hơn so với bình quân cả nước và đứng thứ 3 toàn quốc. 100% trẻ em 5 tuổi tại các cơ sở giáo dục mầm non được học 2 buổi/ngày - cao hơn bình quân cả nước và cao hơn cả vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long.

Năm học 2020-2021, 5/5 tỉnh khu vực Tây Nguyên duy trì và đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học. Tỷ lệ cơ sở giáo dục tiểu học tổ chức dạy học 2 buổi/ngày đạt 94,1%; tỷ lệ cơ sở giáo dục THCS tổ chức dạy học 2 buổi/ngày đạt 84%, tăng gần gấp đôi so với cách đây 10 năm.

Tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi ở cả ba cấp học trong những năm qua đều gia tăng, tương đương so với mức bình quân chung cả nước và tương đương với các vùng khác.

Toàn vùng có 59 trường phổ thông dân tộc nội trú và 68 trường phổ thông dân tộc bán trú. Trong đó, có 49/59 trường phổ thông dân tộc nội trú (chiếm tỷ lệ 83,05%) được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Chất lượng giáo dục của các trường phổ thông dân tộc nội trú và bán trú được cải thiện qua từng năm học.

Mặc dù có thu nhập bình quân đầu người xếp thứ 5 trên 6 vùng của cả nước, chỉ cao hơn vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ. Tuy nhiên, Tây Nguyên lại là một trong những vùng có tốc độ phát triển giáo dục ngoài công lập cao nhất cả nước. Năm học 2020-2021, toàn vùng có 261 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông ngoài công lập, tăng 150 cơ sở giáo dục so với cách đây 10 năm.

Vùng Tây Nguyên hiện có 9 cơ sở giáo dục đại học và phân hiệu của các trường đại học, 4 trường cao đẳng sư phạm và 107 cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Quy mô sinh viên đại học của vùng là 30.221 sinh viên. trong đó, sinh viên là người dân tộc thiểu số chiếm 13,3%. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 50,2%.

Dù đã có nhiều nỗ lực, song với điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, chất lượng giáo dục vùng Tây Nguyên còn thấp hơn mặt bằng chung của cả nước. Hầu hết các chỉ tiêu về chất lượng giáo dục của vùng đều thấp hơn chỉ tiêu chung của cả nước và các khu vực khác. Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực dân tộc thiểu số chưa đáp ứng được yêu cầu. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học tuy tăng những vẫn còn thấp so với cả nước. Đây là rào cản trong phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương trong vùng.

Giáo dục Tây Nguyên đặt mục tiêu đến năm 2030 các chỉ tiêu về chất lượng giáo dục, đào tạo của vùng Tây Nguyên tiệm cận với mặt bằng chung của cả nước. Đến năm 2045, phát triển giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên tiệm cận với các vùng khác trên cả nước và từng bước tiệm cận với nền giáo dục trong khu vực./.