Đây là chủ đề được trao đổi, thảo luận tại Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề “Đại học Kinh tế quốc dân (ĐHKTQD) đóng góp xây dựng văn kiện Đại hội Đảng: Lựa chọn để phát triển”, do Trường ĐHKTQD tổ chức ngày 26/10.
Nhiều chỉ tiêu kinh tế giai đoạn 2016 – 2020 không đạt
Đánh giá việc thực hiện các mục tiêu kinh tế đặt ra trong Kế hoạch 5 năm 2016 – 2020, ông Ngô Thắng Lợi – đại diện nhóm nghiên cứu Trường ĐHKTQD cho biết, các chỉ tiêu kinh tế thực hiện được ở giai đoạn 2016 – 2020 đều đạt mức cao hơn so với giai đoạn 2011 – 2015.
Tuy nhiên, so với các chỉ tiêu kế hoạch đặt ra cho giai đoạn 2016 – 2020 (54 chỉ tiêu trên các lĩnh vực kinh tế), có 11/54 chỉ tiêu không đạt, trong đó, có những chỉ tiêu quan trọng là tốc độ tăng trưởng GDP, thu nhập bình quân đầu người, cơ cấu ngành kinh tế và phần lớn các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tăng trưởng.
So với mục tiêu kinh tế đặt ra trong Chiến lược 2011 - 2020, ông Lợi cũng cho rằng, Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu đặt ra trong Chiến lược 2011 – 2020, đối với lĩnh vực kinh tế cả về mặt số lượng và chất lượng.
Phân tích của nhóm nghiên cứu cho thấy, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 10 năm 2011 – 2020 đạt 6,58% (mục tiêu kế hoạch là 7 – 8%). Đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng chỉ đạt 26,1%, rất khiêm tốn so với mức 35% của kế hoạch. GDP bình quân đầu người chỉ đạt 2.865 USD, so với kế hoạch phải đạt 3.000 USD. Tốc độ tăng trưởng năng suất lao động đạt 5,02% (mục tiêu kế hoạch là 5,5 – 6%), tỷ trọng sản phẩm công nghệ cao đạt 30% (mục tiêu kế hoạch là 45%)…
Lý giải nguyên nhân, rào cản làm chậm quá trình phát triển nền kinh tế của Việt Nam thời gian qua, ông Lợi cho rằng đó là do sự thiếu hụt các yếu tố cốt lõi để tạo ra những đột phá trong phát triển kinh tế.
Trước hết đó là hạn chế về chất lượng nguồn nhân lực, thể hiện ở lao động được đào tạo chiếm tỷ lệ thấp, cơ cấu lao động không phù hợp, chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo của nước ta ngày càng tụt hậu…
“Nếu xét cơ cấu cơ cấu theo cấp đào tạo: cử nhân/ trung cấp/ công nhân, chuẩn mực của các nước đang phát triển là 1/4/10, thì ở nước ta hiện nay là 1/0,98/3,02. Điều này phản ánh Việt Nam đang thiếu hẳn một đội ngũ thợ lành nghề để thực hiện vận hành một nền kinh tế hiện đại” – ông Lợi nói.
|
Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: D.T |
Thứ hai, do công nghệ sử dụng phổ biến ở Việt Nam chủ yếu ở trình độ thấp và lạc hậu. Ông Lợi cho biết, khoảng 80% - 90% công nghệ mà các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng thời gian qua là công nghệ nhập ngoại, trong đó có tới 76% máy móc, dây chuyền công nghệ thuộc thế hệ những năm 80 - 90 của thế kỷ trước. Tỷ lệ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Việt Nam chỉ đạt 2%, trong khi đó tỷ lệ này ở Thái Lan là 30%, ở Malaysia 51%, ở Singapore 73%...
Thứ ba, đó là do khu vực kinh tế tư nhân phần lớn là những doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và đang có xu hướng “nhỏ hoá”. Đặc biệt, năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân nhìn chung còn rất yếu, thiếu chiến lược và kế hoạch đầu tư phát triển dài hạn một cách hợp lý mà chủ yếu tìm kiếm cơ hội đầu tư và lợi ích ngắn hạn, trình độ lao động thấp, yếu kém về quản trị công ty...
Thứ tư, Việt Nam chưa tạo được vị thế cao trong chuỗi giá trị toàn cầu dựa trên thế mạnh là các sản phẩm nông nghiệp có quy mô lớn, giá trị kinh tế cao.
“Trên thực tế Việt Nam có khả năng tạo dựng chuỗi giá trị sản xuất liên kết nông nghiệp – công nghiệp chế biến - thương mại dịch vụ, dựa trên cơ sở các sản phẩm nông nghiệp có giá trị kinh tế cao, mang tính đặc trưng, có lợi thế gắn với từng địa phương, thu hút được các doanh nghiệp, nhà đầu tư sử dụng công nghệ cao... nhưng thời gian qua chúng ta chưa tổ chức được nên vẫn xuất khẩu chủ yếu là nông sản thô, giá trị thu được không cao... ” – ông Lợi nhấn mạnh.
Cần xây dựng những động lực tăng trưởng mới
GS.TS Trần Thọ Đạt – Chủ tịch Hội đồng Trường ĐHKTQD cho biết, trong các văn kiện của Đảng đã đặt ra mục tiêu tổng quát về kinh tế đến năm 2025 và 2030 là Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm nước có mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030. Tuy nhiên, theo GS Đạt trên con đường tiến tới quốc gia thịnh vượng, phát triển bền vững, Việt Nam sẽ phải đối diện với rất nhiều thách thức lớn, như sức ép đuổi kịp và bắt nhịp với sự phát triển kinh tế toàn cầu; nguy cơ tụt hậu do cách mạng công nghiệp 4.0.
Tiềm lực bị hạn chế bởi hạ tầng chậm phát triển và hiệu quả đầu tư công thấp; tiềm ẩn mất cân bằng xã hội có thể cản trở sự phát triển bền vững; yêu cầu cấp bách phải xây dựng nền quản trị công minh bạch và hiệu quả…
Bởi vậy, để hóa giải thách thức và có thể đạt được mục tiêu đạt trình độ phát triển của nhóm nước có mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030, theo GS Trần Thọ Đạt, Việt Nam cần xây dựng những động lực tăng trưởng mới.
Một là, cần xây dựng khu vực kinh tế tư nhân đổi mới, năng động, sáng tạo, thực sự là động lực tăng trưởng số một của nền kinh tế, dựa trên nòng cốt là các tập đoàn kinh tế tư nhân chi phối ngày càng nhiều ngành và lĩnh vực của nền kinh tế.
Hai là, cần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao luôn duy trì động lực sáng tạo, mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh doanh theo phương thức hiện đại và chấp nhận rủi ro.
Song song với đó, khoa học công nghệ cao cần phải được áp dụng trong các ngành kinh tế, cả trong sản xuất, kinh doanh và trong quản lý điều hành phát triển với nội dung thích ứng với xu thế phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
“Để tạo dựng được động lực này, cần kết hợp chuyển giao công nghệ từ bên ngoài (thông qua nhập khẩu công nghệ bằng nguồn vốn của tư nhân, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phải chú trọng chất lượng dòng vốn) và sự nghiên cứu, phát triển công nghệ đặc thù trong nước... ” – GS Trần Thọ Đạt nhấn mạnh.
Phát biểu tại hội thảo, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ đánh giá cao kết quả nghiên cứu của Trường ĐHKTQD khi đánh giá, tổng kết về thực hiện Chiến lược kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020 và những đề xuất của nhóm nghiên cứu, chuyên gia kinh tế về hướng đi, giải pháp trong chiến lược 10 năm tới của đất nước.
Bên cạnh những kết quả nghiên cứu trên, Phó Thủ tướng cũng đề nghị Trường ĐHKTQD và các nhà khoa học, chuyên gia kinh tế tập trung nghiên cứu rõ một số mối quan hệ lớn trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Bao gồm, quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế…
Về định hướng phát triển đất nước, Phó Thủ tướng đề nghị các chuyên gia nghiên cứu, phân tích làm rõ Việt Nam nên tiếp tục đi theo con đường trở thành một nước công nghiệp hay trở thành một nước phát triển, ở mức độ trung bình cao hay trung bình thấp…
Phó Thủ tướng cũng cho biết, ngoài hội thảo này, Đảng, Nhà nước sẽ tiếp tục tham vấn rộng rãi ý kiến đóng góp của các chuyên gia, các nhà khoa học, các tổ chức kinh tế quốc tế… để góp phần xây dựng và hoàn thiện tốt nhất văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII./.
Diệu Thiện