thu cong my nghe

Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ mang lại lợi nhuận cao. Ảnh: TL

Hướng tới mục tiêu 5 tỷ vào 2025

Theo số liệu của Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương), trong giai đoạn 2015 - 2019, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam tăng trung bình 9,5%/năm, từ 1,62 tỷ USD (2015) lên đến 2,23 tỷ USD (2019). Đến nay, các sản phẩm thủ công của Việt Nam đã có mặt tại 163 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Theo ông Vũ Bá Phú - Cục trưởng Cục xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương, trong bối cảnh của dịch Covid-19, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ vẫn duy trì mức tăng trưởng khá với mức tăng hơn 3% so với năm 2019; thậm chí có dòng sản phẩm tăng tới 10 – 11% như: mây tre cói thảm, thêu, dệt thủ công…

Trong đó, Mỹ là thị trường tiêu thụ lớn nhất cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam với doanh số chiếm 35% kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Kế tiếp đó là các thị trường như: Nhật Bản, Liên minh châu Âu, Úc, Hàn Quốc…

Theo thống kê, một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ được cho là lợi thế khi xuất khẩu là đồ gỗ nội thất và mỹ nghệ, mây tre đan, đồ gốm, hàng thêu thủ công, sơn mài…

Bên cạnh đó, theo Hiệp hội Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam nhiều mặt hàng thời trang, quà tặng đã được xuất khẩu tại chỗ thông qua việc phục vụ nhu cầu mua sắm của khách nước ngoài đến Việt Nam (hiện chiếm khoảng 15% tổng chi tiêu - khoảng 15 USD/khách).

Thống kê của Hiệp hội Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam cũng cho thấy, cứ 1 triệu USD xuất khẩu của ngành thủ công mỹ nghệ mang lại lợi nhuận gấp 5 - 10 lần so với ngành khai thác. Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam được dự báo có tăng trưởng xuất khẩu đạt trên 12%/năm, kim ngạch xuất khẩu có thể đạt 4 tỷ USD vào năm 2025.

Cần đầu tư nâng cao giá trị cho sản phẩm thế mạnh

Theo đánh giá của đại diện Cục Xuất nhập khẩu, việc thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA) như: EVFTA, CPTPP, RCEP… đang mở ra rất nhiều cơ hội xuất khẩu cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nhất là tại thị trường có sức tiêu thụ lớn bậc nhất thế giới như châu Âu.

“Thực tế cho thấy, xu thế của người tiêu dùng trên thế giới đang ngày càng hướng tới các sản phẩm thân thiện với môi trường, những mặt hàng có nguồn gốc làm từ nguyên liệu tự nhiên. Đó là cơ hội phát triển rất lớn cho các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, nhất là khi chúng ta có thể mạnh về nguồn nguyên liệu và nghề truyền thống” - ông Hải phân tích.

Tuy nhiên, kèm theo đó, thách thức đặt ra cũng không ít đối với các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Theo các chuyên gia, để gia tăng kim ngạch xuất khẩu dựa trên các ưu đãi thuế quan trong FTA, doanh nghiệp ngành thủ công mỹ nghệ cần tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh của các nhóm mặt hàng có lợi thế, gia tăng giá trị sản phẩm cho nhóm hàng này. Đây là giải pháp vô cùng quan trọng để tăng kim ngạch và xuất khẩu bền vững.

Đồng thời, chúng ta cần đa dạng hóa sản phẩm và tăng cường hợp chuẩn quốc tế nhằm đáp ứng được nhiều phân khúc thị trường khác nhau, trong đó tập trung vào phân khúc thị trường trung và cao cấp. Ngoài ra, các doanh nghiệp xuất khẩu ngành này cũng cần chú trọng đầu tư xây dựng thương hiệu ngành, thương hiệu doanh nghiệp gắn với xúc tiến thương mại.

Về phía Nhà nước, theo các chuyên gia, cần có chính sách đẩy mạnh phát triển các vùng nguyên liệu tập trung để đảm bảo nguồn nguyên liệu tại nơi sản xuất ngành nghề, làng nghề; trong đó tập trung lớn cho sản xuất các sản phẩm chủ lực như mây tre đan lá, thêu dệt, gốm sứ... tại các địa phương đã có điều kiện, có truyền thống./.

Tố Uyên