PV: Thưa ông, Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam vừa gửi công văn đến Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính đề nghị tháo gỡ khó khăn trong việc xác nhận nguồn gốc gỗ rừng trồng để hoàn thuế GTGT. Các cơ quan báo chí phản ánh cơ quan thuế giam tiền hoàn thuế của doanh nghiệp ngành gỗ, ông có quan điểm gì về vấn đề này? Liệu cơ quan thuế có vi phạm luật trong trường hợp này?

PGS.TS Lê Xuân Trường: Căn cứ vào nội dung công văn mà Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam phản ánh thì dường như cơ quan thuế các địa phương đã chậm hoàn thuế và “đẻ” thêm quy định để giam tiền hoàn thuế của doanh nghiệp. Để khẳng định nhận xét đó có đúng không cần xem xét các tình tiết cụ thể, hồ sơ đề nghị hoàn thuế của doanh nghiệp và các văn bản trao đổi giữa cơ quan thuế và doanh nghiệp trong quá trình hoàn thiện hồ sơ đề nghị hoàn thuế, cũng như các thủ tục mà cơ quan thuế đã thực hiện để giải quyết hoàn thuế.

Cơ quan thuế có “giam tiền” hoàn thuế của doanh nghiệp ngành gỗ?
PGS.TS Lê Xuân Trường

Nếu doanh nghiệp đã nộp đầy đủ hồ sơ đề nghị hoàn thuế theo đúng quy định của Luật Quản lý thuế và tuân thủ đầy đủ pháp luật thuế mà cơ quan thuế vẫn không giải quyết hồ sơ hoàn thuế hoặc giải quyết chậm thời hạn thì đó là lỗi của cơ quan thuế.

Nếu doanh nghiệp không nộp đầy đủ hồ sơ đề nghị hoàn thuế hoặc vi phạm pháp luật thì cơ quan thuế không giải quyết hoàn thuế là đúng quy định pháp luật.

PV: Ông có thể nói rõ hơn về những quy định của chính sách hoàn thuế GTGT, chức năng nhiệm vụ của ngành thuế?

PGS.TS Lê Xuân Trường: Quy định về hoàn thuế hiện hành chia thành hai nhóm là hoàn thuế theo Luật Quản lý thuế và hoàn thuế theo các luật thuế. Trường hợp của các doanh nghiệp ngành gỗ như đã nêu là đối tượng hoàn thuế theo pháp luật về thuế GTGT.

Cơ quan thuế có “giam tiền” hoàn thuế của doanh nghiệp ngành gỗ?

Cần xem xét các tình tiết cụ thể, hồ sơ đề nghị hoàn thuế của doanh nghiệp và các văn bản trao đổi giữa cơ quan thuế và doanh nghiệp trong quá trình hoàn thiện hồ sơ đề nghị hoàn thuế cũng như các thủ tục mà cơ quan thuế đã thực hiện để giải quyết hoàn thuế.

Theo pháp luật về thuế GTGT hiện hành thì có 7 trường hợp hoàn thuế GTGT, trong đó có trường hợp hoàn thuế cho doanh nghiệp có hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu. Các doanh nghiệp yêu cầu hoàn thuế phải nộp hồ sơ hoàn thuế đến cơ quan thuế. Hồ sơ hoàn thuế gồm văn bản yêu cầu hoàn thuế và các tài liệu liên quan đến yêu cầu hoàn thuế. Sau khi tiếp nhận hồ sơ hoàn thuế, cơ quan thuế sẽ kiểm tra xem có đầy đủ và đúng quy định của Luật Quản lý thuế, các luật thuế và pháp luật có liên quan.

Trong thời hạn 3 ngày làm việc từ ngày tiếp nhận hồ sơ hoàn thuế, cơ quan thuế thực hiện phân loại hồ sơ và thông báo cho người nộp thuế về việc chấp nhận hồ sơ và thời hạn giải quyết hồ sơ hoàn thuế hoặc thông báo bằng văn bản cho người nộp thuế trong trường hợp hồ sơ không đầy đủ.

Hồ sơ hoàn thuế được phân chia thành 2 loại là hồ sơ kiểm tra trước hoàn thuế sau và hồ sơ hoàn thuế trước kiểm tra sau. Đối với hồ sơ hoàn thuế trước kiểm tra sau thì thời hạn giải quyết hồ sơ hoàn thuế là 6 ngày làm việc kể từ ngày cơ quan thuế có thông báo về việc chấp nhận hồ sơ hoàn thuế.

Đối với hồ sơ kiểm tra trước hoàn thuế sau thì thời hạn giải quyết hồ sơ hoàn thuế là 40 ngày kể từ ngày cơ quan thuế có thông báo về việc chấp nhận hồ sơ hoàn thuế.

Cần lưu ý rằng, trong việc giải quyết hồ sơ hoàn thuế, cơ quan thuế vừa phải giải quyết nhanh chóng hồ sơ hoàn thuế để tạo thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, vừa phải thực hiện các giải pháp nghiệp vụ để phòng chống gian lận hoàn thuế.

Những trường hợp có rủi ro cao về thuế thì cơ quan thuế phải xếp hồ sơ hoàn thuế vào diện kiểm tra trước hoàn thuế sau để có thời gian kiểm tra kỹ lưỡng thực chất các giao dịch kinh tế của doanh nghiệp và phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp nhằm mục đích gian lận, chiếm đoạt ngân sách nhà nước.

Riêng trong lĩnh vực xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp trong nhiều năm qua, cơ quan thuế và các cơ quan bảo vệ pháp luật đã phát hiện và xử lý không ít các doanh nghiệp gian lận hoàn thuế GTGT do đặc thù của lĩnh vực này.

Do vậy, hoàn thuế GTGT cho doanh nghiệp gỗ được xếp vào nhóm rủi ro cao. Chúng ta cần xem xét điều kiện cụ thể để xem có hiện tượng gây khó dễ cho doanh nghiệp trong giải quyết hồ sơ hoàn thuế hay đây là nghiệp vụ tất yếu cơ quan thuế cần làm phòng chống gian lận hoàn thuế, để từ đó có đánh giá xác đáng về hiện tượng chậm giải quyết hồ sơ hoàn thuế GTGT mà Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam phản ánh.

PV: Xin cảm ơn ông!

3 dấu hiệu vi phạm hoàn thuế giá trị gia tăng

Tổng cục Thuế cho biết, doanh nghiệp sử dụng hóa đơn bất hợp pháp, kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào để lập hồ sơ xin hoàn thuế GTGT là thủ đoạn đã được ngành Thuế nhận diện và đấu tranh quyết liệt trong thời gian vừa qua. Qua thanh tra, kiểm tra cơ quan thuế vạch ra nhiều dấu hiệu, chiêu trò vi phạm trong hoàn thuế GTGT trọng tâm tập trung ở 3 dấu hiệu sau:

Thứ nhất, thủ đoạn, hành vi của các đối tượng gian lận hoàn thuế chủ yếu xảy ra tại khâu trung gian (F1, F2) mua bán hàng hóa. Các doanh nghiệp trong khâu trung gian sau khi xuất hóa đơn cho doanh nghiệp F1 thì tạm dừng kinh doanh hoặc bỏ trốn, việc kê khai doanh thu và thuế giữa các doanh nghiệp trung gian không khớp đúng, doanh nghiệp bán (F2) kê khai doanh thu nhỏ nhưng doanh nghiệp mua (F1) kê khai khấu trừ lớn; việc thanh toán qua ngân hàng được cục thuế xác minh thì thanh toán tiền đều được thực hiện qua ngân hàng, tuy nhiên việc thanh toán tiền hàng và rút tiền từ ngân hàng đều diễn ra trong cùng 01 ngày và cùng tên một người rút tiền.

Thứ hai, doanh nghiệp hoàn thuế GTGT sử dụng hóa đơn bất hợp pháp (mua của các doanh nghiệp không có hoạt động sản xuất kinh doanh) hoặc sử dụng hóa đơn của các doanh nghiệp bỏ địa chỉ kinh doanh, thay đổi trạng thái hoạt động liên tục tại nhiều địa phương khác nhau để kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào và lập hồ sơ xin hoàn thuế GTGT.

Thứ ba, doanh nghiệp hoàn thuế lập chứng từ, hồ sơ xin hoàn thuế nhưng không có hàng hóa mua vào, không có kho hàng bến bãi, không có phương tiện vận chuyển, mua hóa đơn để hợp thức hóa đầu vào hoặc sử dụng hóa đơn của các doanh nghiệp bỏ địa chỉ kinh doanh (từ 1/7/2022 trở về trước).

Ngoài các dấu hiệu chung nêu trên, đối với mỗi nhóm ngành hàng, lĩnh vực hàng xuất khẩu lại phát sinh những dấu hiệu vi phạm tinh vi hơn. Cụ thể, các doanh nghiệp có hàng hóa nhập khẩu là linh kiện điện tử nâng khống giá trị lô hàng xuất khẩu, khi nhập khẩu các doanh nghiệp nhập khẩu khai báo giá trị nhập khẩu rất thấp, nhưng khi doanh nghiệp khác xuất khẩu thì khai báo giá trị rất cao so với giá nhập khẩu và chênh lệch nhau trên 50 lần, nguồn gốc hàng hóa thì không rõ ràng...

Còn đối với các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng nông sản, thu mua nguyên liệu tại các cơ sở kinh doanh trong nước rồi xuất khẩu nông sản qua các cửa khẩu biên giới sang Trung Quốc, Lào, Campuchia.... Khi cơ quan Thuế Việt Nam thực hiện xác minh hóa đơn với cơ quan thuế nước ngoài theo Hiệp định tránh đánh thuế hai lần để thu thập thông tin củng cố hồ sơ hoàn thuế, thì cơ quan thuế nước ngoài trả lời không có thông tin người nộp thuế, không liên lạc được và không tìm thấy địa chỉ trụ sở của các cá nhân và doanh nghiệp mua hàng nhập khẩu cần xác minh phía bên nước ngoài...