Số lượng dự án mới khá khiêm tốn

Ông Dương Bá Đức – Vụ trưởng Vụ Đầu tư (Bộ Tài chính) cho biết, Bộ Tài chính là cơ quan được giao hướng dẫn các quy định về quản lý tài chính đối với các dự án PPP.

Trước đây, Bộ Tài chính đã ban hành các thông tư về quản lý tài chính các dự án PPP. Khi Luật PPP có hiệu lực, Bộ Tài chính chủ trì xây dựng trình Chính phủ ban hành Nghị định số 28/2021/NĐ-CP (NĐ 28) quy định cơ chế quản lý tài chính dự án đầu tư theo phương thức PPP.

Hai nhóm vướng mắc liên quan đến cơ chế quản lý tài chính đối với dự án PPP cần tháo gỡ
Vướng mắc liên quan đến cơ chế quản lý tài chính đối với dự án PPP cần tháo gỡ. Ảnh minh họa

Qua theo dõi hoạt động đầu tư PPP trong thời gian qua cho thấy, giai đoạn 2010-2014 là giai đoạn số lượng dự án PPP được ký kết nhiều nhất. Giai đoạn này hợp đồng PPP tập trung chủ yếu BOT, BT trong lĩnh vực giao thông.

Giai đoạn 2015-2020 tập trung chủ yếu tiếp tục đàm phán một vài dự án BOT điện có vướng mắc trong giai đoạn trước và xử lý các vướng mắc của các dự án PPP đã ký hợp đồng.

Giai đoạn 2021 (thời điểm Luật PPP có hiệu lực đến nay), có 3 dự án BOT giao thông được chuyển tiếp từ giai đoạn trước và đã ký; 8 dự án mới song đang giai đoạn chuẩn bị đầu tư, chưa ký kết hợp đồng PPP (trong đó, 7 dự án lĩnh vực giao thông, 1 dự án BTL lĩnh vực nước sạch).

Số lượng dự án mới khá khiêm tốn nêu trên đã đặt ra câu hỏi cho các cơ quan nhà nước, đó là: Nguyên nhân nào dẫn đến xu hướng giảm các dự án PPP trong giai đoạn từ 2015 đến nay? Do khung pháp lý hay do công tác tổ chức thực hiện hay là do nguyên nhân vĩ mô khác? Liệu rằng các cơ chế quản lý tài chính cho các dự án PPP tại Luật PPP và các nghị định hướng dẫn Luật đã đủ hấp dẫn hay chưa? Có vướng mắc gì hay không?

Ông Đức cho biết, để trả lời các câu hỏi này, Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì rà soát vướng mắc của NĐ 28 và đề xuất phương án sửa đổi, bổ sung; báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong quý III/2023.

Số lượng dự án mới khá khiêm tốn nêu trên đã đặt ra câu hỏi cho các cơ quan nhà nước đó là: Nguyên nhân nào dẫn đến xu hướng giảm các dự án PPP trong giai đoạn từ 2015 đến nay? Do khung pháp lý hay do công tác tổ chức thực hiện hay là do nguyên nhân vĩ mô khác? Liệu rằng các cơ chế quản lý tài chính cho các dự án PPP tại Luật PPP và các nghị định hướng dẫn Luật đã đủ hấp dẫn hay chưa? Có vướng mắc gì hay không?

Thực hiện nhiệm vụ được giao, Vụ Đầu tư đã chủ động rà soát, phối hợp với các đơn vị trong Bộ để rà soát NĐ 28 và có văn bản gửi xin ý kiến các bộ, ngành, địa phương, nhà đầu tư và một số cơ quan, tổ chức liên quan đến hoạt động đầu tư.

Tính đến thời điểm hiện nay, Vụ Đầu tư đã nhận được ý kiến của khoảng 60 đơn vị, tổ chức và tổ chức thảo luận với 4 địa phương: TP.HCM, Bình Dương, Hưng Yên, Thái Bình.

Nhiều vướng mắc từ các quy định của luật, cần tháo gỡ

Vụ trưởng Vụ Đầu tư (Bộ Tài chính) cho biết, qua rà soát, các ý kiến tập trung vào một số nhóm vấn đề chính.

Cụ thể, tại nhóm vướng mắc ở Luật PPP thuộc thẩm quyền sửa đổi, bổ sung của Quốc hội. Có ý kiến cho rằng, quy định phần vốn Nhà nước tham gia trong dự án PPP tối đa 50% tổng mức vốn đầu tư (Điều 69 Luật PPP) là không phù hợp; một số ý kiến đề nghị bỏ quy định mức trần này, một số ý kiến đề nghị nghiên cứu sửa đổi tăng tỷ lệ này (có thể là 70% tổng mức đầu tư).

Hai nhóm vướng mắc liên quan đến cơ chế quản lý tài chính đối với dự án PPP cần tháo gỡ
Bộ Tài chính sẽ tiếp tục tổng hợp ý kiến của các đơn vị và đề xuất các phương án sửa đổi, bổ sung các quy định NĐ 28. Ảnh minh họa

Về vấn đề này, ông Dương Bá Đức cho biết, hiện nay, Chính phủ đang nghiên cứu xây dựng luật sửa đổi các luật, trong đó dự kiến sửa đổi quy định tháo gỡ vướng mắc cho các dự án giao thông đường bộ. “Tuy nhiên, để đảm bảo sử dụng vốn nhà nước thật sự hiệu quả, chúng tôi cho rằng cần phải có quy định chặt chẽ về tiêu chí cho phép các dự án đường bộ được áp dụng mức trần vốn nhà nước trên 50% tổng mức đầu tư” – ông Đức chia sẻ.

Về nguồn vốn xử lý cơ chế chia sẻ doanh thu giảm, Bộ Tài chính cho rằng quy định sử dụng nguồn vốn dự phòng ngân sách để xử lý cơ chế chia sẻ doanh thu giảm quy định tại Khoản 3 Điều 83 Luật PPP là chưa phù hợp với quy định của pháp luật NSNN, chưa phù hợp với mục đích sử dùng nguồn ngân sách dự phòng. Do đó, Bộ Tài chính đề nghị nghiên cứu sửa đổi quy định này theo hướng bố trí một dòng ngân sách trong kế hoạch đầu tư công trung hạn để chia sẻ phần doanh thu giảm. kiến

Ngoài ra có một số địa phương đề nghị nhà nước chia sẻ doanh thu giảm cho nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP ngay khi doanh thu thực tế giảm dưới 75% doanh thu quy định trong hợp đồng, chứ không phải thực hiện điều chỉnh giá, thời hạn hợp đồng như quy định tại Luật PPP. Hay, đề nghị bổ sung quy định trách nhiệm của nhà nước khi không bố trí đủ nguồn vốn để thanh toán cho nhà đầu tư theo quy định. Nghiên cứu cho phép sử dụng kiểm toán độc lập để kiểm toán giá trị đề nghị chia sẻ, thay cho kiểm toán nhà nước kiểm toán như quy định tại Luật.

Ông Đức cho biết, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục tổng hợp ý kiến của các đơn vị và đề xuất các phương án sửa đổi, bổ sung các quy định NĐ 28 (nếu cần) để báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong quý III/2023.

Ông Đức cho biết, các ý kiến này là các vướng mắc tại các quy định của Luật PPP, thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Do đó, Bộ Tài chính ghi nhận và sẽ phối hợp với Bộ Kế hoạch Đầu tư và các bộ, ngành để báo cáo các cấp có thẩm quyền xem xét, quyết trong thời gian tới.

Với nhóm vướng mắc Nghị định số 28/2021/NĐ-CP có nhiều nội dung cần được tháo gỡ như: Về lãi suất vốn vay; quy định các chỉ tiêu phân tích, đánh giá tính khả thi của phương án tài chính đối với các lĩnh vực cụ thể; về nguồn vốn thanh toán cho doanh nghiệp dự án BTL, BLT; vướng mắc liên quan đến trình tự, thủ tục thanh toán vốn nhà nước khi áp dụng cơ chế chia sẻ doanh thu giảm…

Tại mỗi nội dung, Bộ Tài chính đều đưa ra ý kiến sửa đổi, bổ sung quy định phù hợp. Chẳng hạn như về quy định các chỉ tiêu phân tích, đánh giá tính khả thi của phương án tài chính đối với các lĩnh vực cụ thể, một số địa phương, bộ, ngành đề nghị quy định hướng dẫn các chỉ tiêu phân tích, đánh giá tính khả thi của phương án tài chính quy định tại khoản 8 Điều 4 NĐ 28 cho từng lĩnh vực cụ thể.

Theo ông Đức, kiến nghị trên là phù hợp. Tuy nhiên, mỗi ngành, lĩnh vực đặc thù riêng nên việc quy định cụ thể cho từng lĩnh vực tại nghị định rất khó đảm bảo phù hợp cho tất cả các lĩnh vực. Do đó, theo ông Đức, việc hướng dẫn cụ thể này, Chính phủ nên giao cho các bộ, ngành hướng dẫn (nếu cần).

Hay như về vướng mắc liên quan đến trình tự, thủ tục thanh toán vốn nhà nước khi áp dụng cơ chế chia sẻ doanh thu giảm, hiện một số dự án giao thông thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Giao thông vận tải (ví dụ dự án Vành đai 4 - vùng Thủ đô) được cấp có thẩm quyền (Thủ tướng Chính phủ, Quốc hội) giao cho UBND cấp tỉnh là cơ quan có thẩm quyền và được sử dụng dự phòng ngân sách trung ương để thanh toán khi áp dụng cơ chế chia sẻ doanh thu giảm.

Trong khi đó, NĐ 28 được xây dựng trên nguyên tắc dự án do trung ương quản lý thì sử dụng nguồn dự phòng ngân sách trung ương; dự án do địa phương quản lý thì sử dụng nguồn dự phòng ngân sách địa phương. Điều này dẫn đến vướng mắc liên quan đến trình tự, thủ tục thanh toán dự phòng ngân sách trung ương đối với các dự án PPP thuộc phạm vi quản lý của trung ương song được cấp có thẩm quyền giao địa phương là cơ quan có thẩm quyền.

Bên cạnh đó, một số kiến nghị cần bổ sung các quy định nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án có vai trò như cơ quan ký kết hợp đồng dự án trong quá trình xác định giá trị đề nghị thanh toán doanh thu giảm; hiện NĐ 28 quy định theo hướng chỉ cơ quan ký kết hợp đồng thực hiện.

Một số ý kiến khác đề nghị bổ sung quy định xử lý trong trường hợp cơ quan ký kết hợp đồng và doanh nghiệp PPP không thống nhất được giá trị đề nghị chia sẻ doanh thu giảm…

Ông Đức cho biết, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục tổng hợp ý kiến của các đơn vị và đề xuất các phương án sửa đổi, bổ sung các quy định NĐ 28 (nếu cần) để báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong quý III/2023.