Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam và Viện Năng lượng Việt Nam (IOE), ngày 28/3, đã tổ chức hội thảo “Đánh giá các kịch bản đưa nhiệt điện than tại Việt Nam về mức phát thải ròng khí nhà kính bằng “0” vào năm 2050”.

Lộ trình chuyển đổi cho các nhà máy nhiệt điện than lớn

Tại hội thảo, nhóm chuyên gia của UNDP đã giới thiệu báo cáo nghiên cứu đưa ra các lộ trình chuyển đổi khả thi cho các nhà máy nhiệt điện than lớn của Việt Nam (cụ thể là Nhà máy Phả Lại, Cao Ngạn và Vân Phong); đánh giá các tác động, chi phí và lợi ích tiềm tàng của các phương án chuyển đổi năng lượng khác nhau.

Huy động nguồn lực tài chính chuyển đổi nhà máy nhiệt điện than tại Việt Nam
Chuyên gia bàn về lộ trình chuyển đổi cho các nhà máy nhiệt điện than lớn tại Việt Nam

Theo đó, các chiến lược như đồng đốt sinh khối, chuyển đổi sang điện khí LNG và tích hợp các nguồn tài nguyên tái tạo đã được đánh giá cùng với các công nghệ tiên tiến như: Hệ thống lưu trữ năng lượng bằng pin (BESS) và Thu hồi, sử dụng và lưu trữ carbon (CCUS).

“Sự phụ thuộc của chúng ta vào sản xuất điện than đặt ra những thách thức đáng kể đối với sự phát triển bền vững và an ninh năng lượng. Việc loại bỏ dần điện than là điều cần phải làm chứ không phải một lựa chọn, nhằm giảm lượng phát thải các bon cho nền kinh tế Việt Nam và đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0”

Bà Ramla Khalidi - Trưởng đại diện thường trú của UNDP Việt Nam.

Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại 1 có công suất 440 MW là nhà máy nhiệt điện lâu đời nhất đã vận hành gần 40 năm, nằm trong danh mục ngừng hoạt động theo Quyết định 500/QĐ-TTg. Nghiên cứu đã đưa ra khả năng tích hợp công nghệ chuyển đổi phù hợp sang công nghệ sạch hơn như là các tổ máy chạy tua bin khí linh hoạt kết hợp với BESS và điện mặt trời, hoặc BESS kết hợp với điện mặt trời và SynCON.

Trong khi đó, Phả Lại 2, công suất 600 MW, vận hành 23 năm cũng được yêu cầu chuyển đổi. Một số lộ trình được xem xét cho Phải Lại 2 bao gồm: đồng đốt NH3 hoặc tua bin khí linh hoạt, hoặc BESS kết hợp với tua bin khí linh hoạt và điện mặt trời, hoặc BESS kết hợp tua bin khí và SynCON. Những chiến lược này không chỉ có lợi cho môi trường bằng cách giảm đáng kể lượng phát thải khí nhà kính mà còn rất quan trọng để tăng cường an ninh năng lượng và tính bền vững của ngành.

Trong trường hợp của nhà máy Cao Ngạn - nhà máy nằm ở vị trí trung tâm TP. Thái Nguyên, nên yêu cầu tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường chặt chẽ. Nghiên cứu nhấn mạnh đến khả năng tích hợp của nhà máy với các nguồn năng lượng tái tạo. Nghiên cứu cũng chỉ ra tiềm năng kết hợp với năng lượng mặt trời và năng lượng gió vào hệ thống phát điện hiện có, được tăng cường nhờ các công nghệ BESS và CCUS tiên tiến. Cách tiếp cận này có thể là một mô hình để cân bằng giữa sản xuất năng lượng với bảo vệ môi trường.

Đối với Nhà máy nhiệt điện than BOT Vân Phong 1, nhà máy mới và lớn nhất có vị trị thuận lợi cho việc tích hợp điện mặt trời, đồng đốt sinh khối. Nghiên cứu phân tích sâu vào các phương án chuyển đổi khác nhau, bao gồm việc tiên phong sử dụng năng lượng hạt nhân quy mô nhỏ và tái sử dụng nhà máy để phù hợp với các công nghệ mới nổi.

Theo các chuyên gia, các biện pháp mang tính chuyển đổi này phù hợp với mục tiêu giảm phát thải của Việt Nam và hứa hẹn tiếp thêm sinh lực cho nền kinh tế địa phương cũng như thúc đẩy đổi mới công nghệ. Tuy nhiên với bất kỳ giải pháp nào được đề xuất, các vấn đề pháp lý sẽ phát sinh liên quan đến hợp đồng BOT cần phải được đàm phán lại.

Nhiều định chế tài chính quốc tế cam kết hỗ trợ các dự án chuyển đổi năng lượng

Chia sẻ về nhu cầu tài chính cho chuyển đổi các nhà máy nhiệt điện than lớn, ông Nguyễn Xuân Trung (Viện Năng lượng Việt Nam) cho biết, ước tính tổng chi phí đầu tư để tiến tới Net-zero vào năm 2050 tại Việt Nam cần 533,9 - 657,8 tỷ USD trong 26 năm tới. Trong đó, đầu tư cho nguồn điện và chuyển đổi điện cần khoảng 499,1 - 631 tỷ USD.

Huy động nguồn lực tài chính chuyển đổi nhà máy nhiệt điện than tại Việt Nam
Ông Koos Neefjes giới thiệu Kế hoạch huy động nguồn lực (RMP) để thực hiện chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam

Để hỗ trợ Việt Nam chuyển đổi carbon thấp trong ngành năng lượng, chuyên gia từ UNDP - ông Koos Neefjes đã giới thiệu Kế hoạch huy động nguồn lực (RMP) để thực hiện chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam và nhu cầu về các gói tài chính cho chuyển đổi nhà máy nhiệt điện than.

Ông Koos Neefjes cho biết, các định chế tài chính phát triển quốc tế đã đồng ý huy động ít nhất 7,75 tỷ USD để cung cấp các khoản vay cho các dự án chuyển đổi năng lượng tại Việt Nam. Trong đó, tài chính công trong RMP được đề xuất mức tổng giá trị tài trợ 321,6 triệu USD.

Theo đó, nguồn tài chính cho các khoản vay ưu đãi (các khoản vay được thực hiện với các điều khoản hấp dẫn hơn so với thị trường vốn) là 2,75 tỷ USD sẽ được giải ngân thông qua: Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư châu Âu (EIB), Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW). Trong số này, 2,18 tỷ USD là các khoản vay nợ chính phủ hoặc có bảo lãnh chính phủ. Còn các công cụ tài chính thương mại sẽ cho vay trên 5 tỷ USD thực hiện theo các điều khoản thương mại nhưng sẽ bao gồm các mục tiêu phát triển.

Các loại dự án đầu tư được hỗ trợ gồm: chuyển đổi sản xuất điện than; phát triển ngành năng lượng tái tạo; truyền tải điện và lưu trữ năng lượng; sử dụng hiệu quả năng lượng; chuyển đổi năng lượng trong lĩnh vực giao thông vận tải; đổi mới sáng tạo, phát triển và chuyển giao công nghệ.

Quy hoạch Điện VIII đề ra định hướng chỉ thực hiện tiếp các dự án đã có trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh và đang đầu tư xây dựng đến năm 2030. Cùng với đó, sẽ thực hiện chuyển đổi từ nhiên liệu than sang sinh khối và amoniac với các nhà máy đã vận hành được 20 năm; dừng hoạt động các nhà máy có tuổi thọ trên 40 năm nếu không thể chuyển đổi nhiên liệu.