Sửa Luật thuế Giá trị gia tăng đáp ứng yêu cầu cải cách, phù hợp thông lệ quốc tế
Nguồn: Bộ Tài chính. Đồ họa: Phương Anh

PV: Bộ Tài chính vừa hoàn thiện tờ trình trình Chính phủ dự án Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi), việc xây dựng dự án Luật nhằm thực hiện đúng các chủ trương của Đảng, Nhà nước. Theo ông, dự án Luật đã đáp ứng các yêu cầu đổi mới chưa, thưa ông?

Nhiều nội dung sửa đổi phù hợp hơn với thực tiễn

PGS.TS Lê Xuân Trường cho biết, dự thảo Luật đã đưa ra nhiều nội dung sửa đổi phù hợp hơn với thực tiễn và giải quyết nhiều vướng mắc như: phạm vi đối tượng không chịu thuế, kê khai khấu trừ thuế; đồng thời, dự thảo luật có nội dung đề xuất mang tính đột phá như bỏ áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% đối với nhiều dịch vụ xuất khẩu.

PGS.TS Lê Xuân Trường: Các đề xuất trong dự án Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) đã được thực hiện hoàn toàn đúng với chủ trương của Đảng và Nhà nước. Về cơ bản, các đề xuất trong dự án Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) phù hợp với các định hướng được xác định trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 theo Quyết định số 508/QĐ-TTg ngày 23/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ.

Các điểm nhấn nổi bật trong dự án Luật như: các nội dung được cụ thể, dễ hiểu hơn, minh bạch hơn; sửa đổi quy định pháp luật để mở rộng cơ sở thuế, vừa đảm bảo tính hiệu quả vừa đảm bảo tính công bằng theo hướng thu hẹp đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng (GTGT); sửa đổi, bổ sung các quy định về thuế suất thuế GTGT và hoàn thuế GTGT để tạo thuận lợi hơn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và ngăn ngừa gian lận thuế; sửa đổi, bổ sung toàn diện các nội dung cụ thể của Luật thuế GTGT để đảm bảo tính đồng bộ, tương thích với quy định pháp luật chuyên ngành và giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện Luật thuế GTGT thời gian qua.

PV: Các nội dung sửa đổi, bổ sung tại dự án Luật thuế GTGT (sửa đổi) đã đảm bảo với yêu cầu cải cách thuế và phù hợp với thông lệ quốc tế chưa, thưa ông?

Sửa Luật thuế giá trị gia tăng đáp ứng yêu cầu cải cách, phù hợp thông lệ quốc tế

PGS.TS Lê Xuân Trường: Về cơ bản, các đề xuất sửa đổi trong dự án Luật thuế GTGT (sửa đổi) đã phù hợp với định hướng, cụ thể hóa và đáp ứng các yêu cầu của cải cách thuế cũng như phù hợp với thông lệ quốc tế tốt. Trong đó, đáng kể là các vấn đề sau: Thu hẹp đối tượng không chịu GTGT; thu hẹp đối tượng áp dụng thuế suất 5% để tạo tiền đề có thể áp dụng duy nhất một mức thuế suất thuế GTGT (không kể thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu).

Tuy vậy, mức độ thu hẹp đối tượng không chịu thuế GTGT trong dự án Luật vẫn cần cân nhắc để làm mạnh hơn nhằm đáp ứng tốt hơn định hướng về mở rộng cơ sở thuế đã xác định trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030.

PV: Tại dự án Luật thuế GTGT (sửa đổi), Bộ Tài chính đã chuyển một số hàng hóa dịch vụ từ không chịu thuế thành chịu thuế; đồng thời chuyển một số hàng hóa dịch vụ từ 5% thành chịu thuế 10%, ông đánh giá ra sao về chủ trương này?

PGS.TS Lê Xuân Trường: Sau 15 năm thực hiện Luật Thuế GTGT năm 2008 (với 3 lần sửa đổi, bổ sung), các điều kiện kinh tế - xã hội đã có nhiều thay đổi, nên việc điều chỉnh đối tượng không chịu thuế và thuế suất vừa phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, vừa đáp ứng tốt hơn yêu cầu của cải cách thuế đã được xác định trong Quyết định số 508/QĐ-TTg ngày 23/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ.

Trong đó, việc chuyển một số đối tượng không chịu thuế là đầu vào rất quan trọng của sản xuất nông nghiệp như phân bón, máy móc thiết bị chuyên dùng cho sản xuất nông nghiệp sang diện áp dụng thuế suất 5% và cùng với đó là đề xuất sửa đổi đối tượng hoàn thuế GTGT sẽ góp phần hỗ trợ tốt hơn cho lĩnh vực sản xuất quan trọng này, qua đó, hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp.

Thêm vào đó, một số hàng hóa, dịch vụ trước đây thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT là những dịch vụ phi lợi nhuận, chủ yếu do các đơn vị sự nghiệp công cung cấp đến nay không còn phù hợp vì đối tượng cung cấp được mở rộng, cần đưa sang chịu thuế để giảm bớt hiệu ứng chuyển thuế và đảm bảo tính liên hoàn khi đánh thuế GTGT.

Đồng thời, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội những năm qua, một số hàng hóa, dịch vụ trước đây áp dụng thuế suất 5% do đó là những hàng hóa, dịch vụ cần hỗ trợ để đảm bảo đời sống cho người có thu nhập thấp đến nay đời sống người dân được nâng cao nên không cần thiết phải hỗ trợ nữa, chẳng hạn như các hàng hóa dịch vụ sau: đường; phụ phẩm trong sản xuất đường, bao gồm gỉ đường, bã mía, bã bùn; nhựa thông sơ chế; lâm sản chưa qua chế biến; hoạt động văn hóa, triển lãm, thể dục, thể thao; biểu diễn nghệ thuật; sản xuất phim; nhập khẩu, phát hành và chiếu phim.

Việc chuyển những hàng hóa, dịch vụ này từ 5% sang áp dụng 10% là phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay và thời gian tới. Đồng thời, là một bước cụ thể để thực hiện Chiến lược cải cách thuế với định hướng chỉ áp dụng một mức thuế suất thuế GTGT (không kể thuế suất 0% đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu).

PV: Xin cảm ơn ông!

Tạo thuận lợi khi hoàn thuế giá trị gia tăng dự án đầu tư

Theo PGS. TS Lê Xuân Trường, việc sửa đổi quy định về hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với dự án đầu tư là cần thiết. Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 quy định “Dự án đầu tư là tập hợp đề xuất bỏ vốn trung hạn hoặc dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư kinh doanh trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định”.

Với cách hiểu như vậy, về bản chất, dự án đầu tư là một bản kế hoạch kinh doanh gắn với đề xuất bỏ vốn trung hoặc dài hạn. Khi quy định “hoàn thuế cho dự án đầu tư mới” là không phù hợp vì nếu mới là “tập hợp các đề xuất bỏ vốn…” thì chưa có thuế GTGT đầu vào để hoàn. Trên thực tế, thời gian qua khi gọi tên là “hoàn thuế cho dự án đầu tư mới” thực chất là hoàn thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ (chủ yếu là tài sản cố định) khi doanh nghiệp thực hiện hoạt động đầu tư trên cơ sở dự án đầu tư đã thực hiện xong các thủ tục pháp lý.

Do xác định tên gọi không phù hợp nên trong thực tiễn nảy sinh nhiều vướng mắc khi hoàn thuế cho dự án đầu tư. Đặc biệt, khi thực hiện các dự án có thể phát sinh doanh thu bán sản phẩm chạy thử, doanh thu thanh lý tài sản nhưng thực chất giai đoạn xây dựng cơ bản ban đầu chưa thực sự hoàn thành. Việc phát sinh những khoản doanh thu như vậy được một số cơ quan thuế địa phương coi là đã phát sinh doanh thu nên không còn là dự án đầu tư nữa và không thuộc diện được hoàn thuế GTGT.

Để khắc phục tình trạng này, tạo thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, cần nghiên cứu thay vì quy định hoàn thuế GTGT cho dự án đầu tư mới, thì nên quy định hoàn thuế GTGT cho doanh nghiệp đầu tư tài sản cố định phát sinh số thuế GTGT đầu vào lớn (đạt một ngưỡng nhất định, chẳng hạn như 500 triệu đồng trở lên). Quy định như vậy rất rõ ràng, đơn giản và dễ thực hiện, bởi phần lớn các trường hợp thực hiện hoạt động đầu tư để hiện thực hóa dự án đầu tư thì trong giai đoạn đầu chỉ có đầu tư vào tài sản cố định là chủ yếu (xây dựng kết cấu hạ tầng, nhà xưởng, mua máy móc thiết bị…).

Do vậy, việc giải quyết hoàn thuế GTGT cũng tập trung đúng vào nhóm đối tượng hiện đang thực hiện. Ngoài ra, những doanh nghiệp đang hoạt động có đầu tư lớn vào tài sản cố định cũng rất nên hoàn thuế GTGT để tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.