Ông Phạm Ngọc Long - Phó Tổng giám đốc phụ trách lĩnh vực Dịch vụ thuế và giá giao dịch liên kết thuộc Công ty Tư vấn EY Việt Nam, đã có buổi trao đổi với Thời báo Tài chính Việt Nam quanh đề tài này.

PV: Các giao dịch liên kết thường được cơ quan quản lý thuế rất cảnh giác, do nghiệp vụ này có thể làm chuyển dịch doanh thu, lợi nhuận từ công ty này sang công ty khác (ngôn ngữ thông thường hay gọi là chuyển giá). Quan điểm của ông về việc này như thế nào?

Ông Phạm Ngọc Long: Chuyển giá là một thuật ngữ có hàm ý đề cập đến việc doanh nghiệp, thông qua các nghiệp vụ mua bán hàng hóa, dịch vụ (thường là với các bên có liên quan), để chuyển doanh thu từ nơi có thuế suất cao sang nơi có thuế suất thấp, nhằm mục đích giảm nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp.

Ông Phạm Ngọc Long
Ông Phạm Ngọc Long

Ở góc độ của cơ quan quản lý thuế, rõ ràng cần phải kiểm soát chặt chẽ việc chuyển giá của các doanh nghiệp để đảm bảo thu đúng, thu đủ thuế. Việc này đã được quy định tại Nghị định 132/2020/NĐ-CP (Nghị định 132) của Chính phủ. Đây là văn bản pháp luật hiện hành, quy định nguyên tắc, phương pháp, trình tự xác định yếu tố hình thành giá giao dịch liên kết; quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế trong xác định giá giao dịch liên kết, thủ tục kê khai; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quản lý thuế đối với người nộp thuế có phát sinh giao dịch liên kết.

PV: Thực tế có những loại hàng hóa dịch vụ không có cơ sở (hàng hóa dịch vụ tương đương) để so sánh và xác định mức giá tương đương giao dịch độc lập. Vậy hình thức xác định giá cho các giao dịch này phải thực hiện như thế nào?

Các phương pháp xác định giá giao dịch độc lập được chấp nhận theo quy định tại Nghị định 132:

- Phương pháp so sánh giá giao dịch độc lập.

- Phương pháp giá bán lại.

- Phương pháp giá vốn cộng lãi.

- Phương pháp so sánh tỷ suất lợi nhuận thuần.

- Phương pháp phân bổ lợi nhuận.

Ông Phạm Ngọc Long: Hiện nay, có 5 phương pháp so sánh xác định giá giao dịch độc lập được chấp nhận.

Người nộp thuế khi áp dụng theo một trong năm phương pháp trên, nếu giá/tỷ suất lợi nhuận của giao dịch liên kết nằm trong khoảng giá trị giao dịch độc lập thì giá giao dịch đó là phù hợp.

“Khoảng giá trị giao dịch độc lập” là tập hợp các giá trị về mức giá, tỷ suất lợi nhuận hoặc tỷ lệ phân bổ lợi nhuận của các đối tượng so sánh độc lập, các giá trị thuộc tập hợp này có mức độ so sánh tin cậy tương đương nhau. Trong trường hợp cần thiết, doanh nghiệp có thể áp dụng phương pháp xác suất thống kê để xác định khoảng giá trị giao dịch độc lập chuẩn và giá trị trung vị mang tính chất đại diện, phổ quát, phổ biến nhằm tăng độ tin cậy của tập hợp các đối tượng so sánh độc lập.

Câu chuyện về những “góc khuất” đằng sau các giao dịch liên kết
Các bên tham gia trong giao dịch liên kết thường có thể trực tiếp hoặc gián tiếp can thiệp vào quyết định của bên kia. Ảnh: T.L

Thực tế cũng có trường hợp mức giá/tỷ suất lợi nhuận/tỷ lệ phân bổ lợi nhuận của doanh nghiệp không thuộc khoảng giá trị giao dịch độc lập chuẩn của các đối tượng so sánh độc lập tương đồng. Khi đó, họ phải xác định giá trị thuộc khoảng giao dịch độc lập chuẩn, phản ánh mức độ tương đồng cao nhất với giao dịch liên kết để điều chỉnh mức giá, tỷ suất lợi nhuận, tỷ lệ phân bổ lợi nhuận của giao dịch liên kết.

Nhìn chung, đây là một vấn đề khá phức tạp và doanh nghiệp cũng phải đối diện nhiều rủi ro pháp lý nếu không nắm chắc quy định pháp luật cũng như kinh nghiệm thực tế. Do đó, các doanh nghiệp nên có sự tham vấn chuyên môn đầy đủ của các chuyên gia tư vấn nhằm đảm bảo tuân thủ cao nhất các quy định về kê khai và lập hồ sơ xác định giá giao dịch liên kết.

Doanh nghiệp phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản gì trong giao dịch với các công ty có mối quan hệ liên kết?

Doanh nghiệp có giao dịch liên kết có trách nhiệm kê khai thông tin về quan hệ liên kết và giao dịch liên kết, đồng thời phải lưu giữ và cung cấp hồ sơ xác định giá giao dịch liên kết theo mẫu biểu tại Nghị định 132.

Trong đó, những thông tin cơ bản thể hiện trong hồ sơ gồm có thông tin về quan hệ liên kết và giao dịch liên kết, chính sách và phương pháp xác định giá đối với giao dịch liên kết, hồ sơ toàn cầu là các thông tin về hoạt động kinh doanh của tập đoàn đa quốc gia, báo cáo lợi nhuận liên quốc gia của công ty mẹ tối cao và nhiều thông tin cơ bản khác.

PV: Ngoài cơ quan thuế, cổ đông và nhà đầu tư của các công ty đại chúng cũng khá quan tâm đến các giao dịch liên kết. Vậy, các cổ đông và nhà đầu tư có thể kiểm soát các giao dịch liên kết như thế nào để đảm bảo lợi ích cổ đông đại chúng?

Ông Phạm Ngọc Long: Các nội dung tại Nghị định 132 chỉ tập trung vào mặt quản lý thuế trong các giao dịch liên kết trên cơ sở góc độ quản lý nhà nước, còn với góc độ quan tâm của cổ đông và nhà đầu tư thì thuộc phạm vi quản trị của nội bộ công ty.

Về cơ bản, giao dịch liên kết giữa doanh nghiệp trong nội bộ tập đoàn nếu không làm thất thoát lợi ích chung của toàn tập đoàn ra bên ngoài thì cũng không ảnh hưởng đến lợi ích của các cổ đông.

Ngoài ra thực tế theo tôi được biết, Luật Doanh nghiệp năm 2020, Luật Chứng khoán năm 2019 cũng có những quy định yêu cầu doanh nghiệp phải thông qua đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị trong các giao dịch với bên liên quan có quy mô lớn. Các cổ đông khi tham gia xây dựng điều lệ công ty cũng có thể yêu cầu công ty đưa thêm những quy định để kiểm soát việc thất thoát lợi ích của doanh nghiệp bởi các giao dịch liên kết (nếu có).

PV: Xin cảm ơn ông!