Bộ trưởng Bộ Tài chính đã nhận được Phiếu chất vấn của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Sửu (Đoàn đại biểu Quốc hội TP. Huế) do Ủy ban Dân nguyện và Giám sát của Quốc hội chuyển tới tại Công văn số 832/UBDNGS15 ngày 24/6/2025, cụ thể như sau:
Một trong những nhân tố then chốt để nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam là công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế. Xin Bộ trưởng cho biết: Những kết quả cụ thể đã đạt được trong xây dựng và hoàn thiện thể chế thu hút FDI thời gian qua; Những tồn tại, hạn chế lớn nhất hiện nay về thể chế; Định hướng giải pháp trọng tâm trong thời gian tới để tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo điều kiện thuận lợi, cạnh tranh thu hút FDI, đặc biệt là thu hút FDI chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu phát triển và hội nhập sâu rộng ngày nay?
Nhiều chính sách đúng đắn, phù hợp thu hút hiệu quả vốn FDI
Trả lời ý kiến của Đại biểu Quốc hội, Bộ Tài chính cho biết, đầu tư nước ngoài đã và đang đóng góp vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Vốn FDI góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập; chuyển giao khoa học - công nghệ… Việt Nam đã có nhiều chính sách đúng đắn, phù hợp thu hút nguồn vốn FDI, góp phần quan trọng vào công cuộc công nghiệp hóa đất nước.
![]() |
Việt Nam đã có nhiều chính sách đúng đắn, phù hợp thu hút nguồn vốn FDI. Ảnh minh họa |
Theo đó, Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đề ra định hướng đến 2030 phải hoàn thiện thể chế, chính sách nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài, nhấn mạnh thu hút có chọn lọc các dự án công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, gắn kết với kinh tế trong nước.
Việt Nam tận dụng lợi thế của 17 hiệp định FTA đã ký kết để mở rộng thị trường, qua đó thu hút các doanh nghiệp FDI muốn khai thác các ưu đãi thuế quan từ mạng lưới FTA rộng khắp. Nỗ lực đa dạng hóa thị trường xuất khẩu để giảm rủi ro và tăng sức hấp dẫn của Việt Nam. |
Định hướng này đã được thể chế hóa tại Luật Đầu tư 2020 và các văn bản hướng dẫn, trong đó siết chặt tiêu chí thẩm định dự án FDI tiềm ẩn rủi ro an ninh quốc gia, yêu cầu đánh giá an ninh với dự án tại địa bàn nhạy cảm.
Chính phủ đã ban hành Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài 2021-2030 (Quyết định 667/QĐ-TTg). Thủ tướng Chính phủ đã ban hành bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư nước ngoài (Quyết định 315/QĐ-TTg ngày 18/02/2025) để làm căn cứ sàng lọc, định hướng dự án FDI theo chất lượng.
Ngoài ra, nhiều cơ chế ưu đãi mới được ban hành, tiêu biểu như Quyết định 29/2021/QĐ-TTg về ưu đãi đầu tư đặc biệt (ưu đãi thuế, đất đai vượt trội cho dự án công nghệ cao, dự án chiến lược) và Nghị định số 182/2024/NĐ-CP về thành lập, sử dụng Quỹ hỗ trợ đầu tư (đối với các dự án ưu tiên, sẽ hỗ trợ trực tiếp bằng tiền mặt đối với các chi phí: đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; R&D (nghiên cứu và phát triển); đầu tư tạo tài sản cố định; sản xuất sản phẩm công nghệ cao; đầu tư công trình hạ tầng xã hội và các trường hợp khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Tiếp thu và chuyển giao công nghệ chưa đạt được hiệu quả mong đợi
Tuy vậy, Bộ Tài chính cũng thẳng thắn thừa nhận, thực tiễn cho thấy, hoạt động thu hút FDI hiện nay vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: Một số thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà; Tiếp thu và chuyển giao công nghệ chưa đạt được hiệu quả mong đợi; Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu; Mức đóng góp của các doanh nghiệp FDI cho việc nâng cao năng lực công nghiệp Việt Nam chưa cao; Chưa có nhiều dự án quy mô lớn, nhất là các tập đoàn đa quốc gia;…
Nguyên nhân hạn chế của những tồn tại trên được Bộ Tài chính chỉ ra là do:
Xung đột thương mại giữa các nền kinh tế lớn kéo dài ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế thế giới; nguy cơ gia tăng những dòng đầu tư dịch chuyển kém chất lượng với công nghệ lạc hậu và ô nhiễm môi trường.
Bên cạnh đó, năng lực của các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế, khó có khả năng hấp thụ được hiệu quả nguồn vốn đầu tư dịch chuyển. Thực tế đây là yếu tố đã tồn tại từ khi Việt Nam mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài và mặc dù đã có cải thiện nhưng còn chưa đáp ứng được các yêu cầu của đối tác nước ngoài, do đó hạn chế khả năng kết nối, tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị của đối tác nước ngoài.
Một nguyên nhân khác, dù quỹ đất khu công nghiệp trên cả nước còn nhiều nhưng diện tích đất cho sản xuất công nghiệp có sẵn hạ tầng đầy đủ theo nhu cầu của nhà đầu tư còn hạn chế và chủ yếu tập trung vào các thành phố, địa phương lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương,…
Ngoài ra, ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước chưa đáp ứng được khả năng tự cung ứng trong chuỗi sản xuất. Công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam còn nhiều hạn chế, khả năng tự chủ chưa cao.
Các giải pháp thu hút chọn lọc đầu tư nước ngoài trong thời gian tới
Về các giải pháp thu hút chọn lọc đầu tư nước ngoài trong thời gian tới, Bộ Tài chính cho biết, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nền kinh tế lớn, Việt Nam đang định hình một chiến lược cạnh tranh riêng để thu hút đầu tư và phát triển bền vững.
![]() |
Chiến lược cạnh tranh của Việt Nam chuyển trọng tâm từ ưu đãi thuế sang nâng cao chất lượng môi trường đầu tư và dịch vụ hỗ trợ. Ảnh minh họa |
Về thu hút FDI, chiến lược cạnh tranh của Việt Nam chuyển trọng tâm từ ưu đãi thuế sang nâng cao chất lượng môi trường đầu tư và dịch vụ hỗ trợ. Chú trọng phát triển hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế đồng bộ; đảm bảo nguồn điện, quỹ đất sạch, nhân lực chất lượng cao; đồng thời cải cách mạnh thủ tục hành chính sau cấp phép (đất đai, xây dựng, phòng cháy chữa cháy…) để rút ngắn thời gian triển khai dự án.
Bên cạnh đó, tiếp tục mở rộng quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với các quốc gia hàng đầu. Việt Nam cũng tham gia các sáng kiến đối thoại với nhà đầu tư như Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF), Sáng kiến Việt-Nhật… để thường xuyên lắng nghe và cải thiện chính sách.
Thông qua đối thoại và hợp tác đa phương, Việt Nam vừa tranh thủ được hỗ trợ về kỹ thuật, vốn và kinh nghiệm từ đối tác, vừa quảng bá mạnh mẽ hình ảnh một Việt Nam đổi mới, thân thiện với nhà đầu tư. Đây chính là lợi thế mềm trong cạnh tranh thu hút FDI.
Bộ Tài chính cho biết, giải ngân vốn FDI năm 2024 đạt kết quả ấn tượng với 25,35 tỷ USD, tăng 9,4% so với năm 2023, là mức giải ngân cao nhất từ trước đến nay, chiếm 16,5% vốn đầu tư toàn xã hội, tăng 0,5 điểm phần trăm so với mức đóng góp vào vốn đầu tư xã hội của năm trước. Vốn thực hiện tăng cao khẳng định cam kết của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng thực chất và hiệu quả hơn. Tính lũy kế đến ngày 30/06/2025, cả nước có 43.702 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 519,5 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 334,28 tỷ USD, bằng 64,3% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực. |