Hiệu quả hoạt động của doanh nghệp nhà nước tăng trưởng qua các năm
Cụ thể, Đại biểu Nguyễn Thị Kim Bé nêu ý kiến, để khơi thông nguồn lực nhà nước đang đầu tư tại các doanh nghiệp, theo Bộ trưởng, cần có giải pháp gì để tác động đến lĩnh vực này, góp phần đạt được mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2025 và tăng trưởng hai con số trong thời gian tới?
Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, hiện nay, cả nước có 671 doanh nghiệp nhà nước (DNNN), gồm 473 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và 198 doanh nghiệp có vốn nhà nước chi phối, nắm giữ nguồn lực lớn của đất nước. Theo số liệu hợp nhất năm 2024, tổng tài sản của 671 DNNN đạt khoảng 4,1 triệu tỷ đồng, tổng doanh thu đạt gần 2,9 triệu tỷ đồng, nộp ngân sách khoảng gần 390.000 tỷ đồng.
Khơi thông nguồn lực nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp để thúc đẩy tăng trưởng |
Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính của các DNNN có sự tăng trưởng qua các năm. Đến hết năm 2024, các DNNN nói chung đã tập trung thực hiện các dự án đầu tư để nâng cao năng lực, quy mô sản xuất kinh doanh. Các dự án cơ bản đều đã được DNNN khẩn trương thực hiện theo tiến độ, hiệu quả, tiết kiệm theo kế hoạch được duyệt, tập trung vào các ngành, lĩnh vực quan trọng, then chốt của nền kinh tế, góp phần vào thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
Thời gian qua, khu vực DNNN luôn được Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính và các bộ, ngành quan tâm chỉ đạo, tham mưu để tiếp tục thúc đẩy sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện chủ trương của Đảng, chỉ đạo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, Bộ Tài chính theo chức năng, nhiệm vụ được giao đã và đang tiếp tục tham mưu với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thực hiện nhiều giải pháp đổi mới, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN.
Trong đó, hoàn thiện chính sách pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã xây dựng, trình Chính phủ trình Quốc hội thông qua (ngày 14/6/2025) Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp (Luật số 68/2025/QH15) với nhiều nội dung đổi mới so với Luật số 69/2014/QH13 trước đây với cách thức tiếp cận mới, rõ ràng và trao quyền nhiều hơn cho DNNN; phân công rõ, phân cấp mạnh trong việc quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp; tăng tính chủ động trong các quyết định đầu tư của doanh nghiệp; tách bạch, phân định chức năng quản lý nhà nước với chức năng của chủ sở hữu vốn và doanh nghiệp; giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của cơ quan đại diện chủ sở hữu. Ngoài ra, Luật cũng tháo gỡ cơ bản các vướng mắc cho hoạt động của DNNN trong thời gian qua.
Hiện nay, Bộ Tài chính cũng đang khẩn trương xây dựng, hoàn thiện 3 dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật số 68/2025/QH15, dự kiến có hiệu lực thi hành cùng với thời điểm Luật số 68/2025/QH15 có hiệu lực ngày 1/8/2025. Việc ban hành Luật số 68/2025/QH15 và các Nghị định hướng dẫn sẽ góp phần hoàn thiện khung pháp lý đầy đủ điều chỉnh hoạt động quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã liên tục có những văn bản chỉ đạo, ban hành các nghị quyết, chỉ thị, thông báo và tổ chức các hội nghị với DNNN để chỉ đạo và giao nhiệm vụ cho các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, đồng thời có những giải pháp tháo gỡ khó khăn vướng mắc liên quan đến hoạt động của DNNN…
Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Tài chính cũng đã có văn bản đề nghị các bộ, ngành, địa phương với vai trò là cơ quan chủ sở hữu thực hiện giao chỉ tiêu tăng trưởng từ 8% trở lên đối với các DNNN thuộc phạm vi quản lý, đồng thời quyết liệt chỉ đạo thực hiện các giải pháp để phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Đối với các DNNN thuộc Bộ Tài chính (sau khi tiếp nhận 18 Tập đoàn, Tổng công ty từ Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp), Bộ Tài chính cũng đã ban hành Quyết định số 1073/QĐ-BTC ngày 25/3/2025 giao chỉ tiêu tăng trưởng năm 2025 cho các doanh nghiệp từ 8% trở lên để góp phần hoàn thành mục tiêu tăng trưởng GDP 8% của cả nước theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Tài chính nhận thấy, trong giai đoạn tới, bối cảnh quốc tế dự báo tiếp tục có nhiều diễn biến khó lường, tác động của chính sách thuế quan của Mỹ và chiến tranh thương mại, địa chính trị sẽ tác động sâu sắc đến kinh tế trong nước. Bên cạnh đó, kinh tế trong nước cũng bước vào giai đoạn phát triển mới với mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững, dựa trên ba trụ cột của nền kinh tế là: kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Theo đó, cũng đặt ra những thách thức, yêu cầu mới đối với khu vực DNNN.
Vì vậy, các bộ, ngành, địa phương, DNNN cần tiếp tục thực hiện toàn diện, hiệu quả các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; nắm chắc tình hình, chủ động các giải pháp với tinh thần biến mọi khó khăn, thách thức thành cơ hội bứt phá, quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt để thúc đẩy mạnh mẽ và làm mới các động lực tăng trưởng.
Các DNNN, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước cần phát huy tốt hơn nữa hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, các nguồn lực của mình, thực hiện đầu tư các dự án lớn, trọng tâm, trọng điểm, có tác động lan tỏa lớn. Tăng cường gắn kết chặt chẽ giữa các khu vực DNNN, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI; tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW của Trung ương về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia...
Theo đó, các DNNN cần chủ động xây dựng các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để phát triển doanh nghiệp, đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát triển đất nước, trong đó tập trung tiên phong trong 6 lĩnh vực theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ…
Tác động của xu hướng dịch chuyển của dòng vốn FDI đến tăng trưởng
Về câu hỏi tác động của xu hướng dịch chuyển của dòng vốn FDI đến tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam? Giải pháp của ta trước tác động này?
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cho biết, xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng sau đại dịch và trong cạnh tranh Mỹ-Trung tạo lợi thế cho Việt Nam nổi lên như trung tâm sản xuất mới ở châu Á. Trên thực tế, nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu đã quyết định đầu tư những dự án quy mô lớn tại Việt Nam.
Để đạt mục tiêu thành nước phát triển vào 2045, Việt Nam cần chuyển dịch trọng tâm sang thu hút FDI có chọn lọc. |
Cùng với đó, chuyển đổi xanh đang trở thành xu hướng đầu tư tất yếu mà Việt Nam có nhiều lợi thế đón bắt. Theo đánh giá của các chuyên gia, Việt Nam được xếp hạng điểm đến đầu tư tốt nhất về năng lượng tái tạo ở ASEAN; được dự báo sớm trở thành một trong năm trung tâm năng lượng tái tạo lớn của thế giới, sánh cùng Bắc Âu, Hoa Kỳ, Đông Á và Nam Mỹ…
Để đạt mục tiêu thành nước phát triển vào 2045, Việt Nam cần chuyển dịch trọng tâm sang thu hút FDI có chọn lọc: ưu tiên các dự án công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường thay vì chạy theo số lượng bằng mọi giá. Các đối tác chiến lược như nhóm G7, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Hoa Kỳ, EU… tiếp tục là trọng tâm xúc tiến đầu tư, gắn với những lĩnh vực Việt Nam đang khuyến khích phát triển.
Trong đó, các giải pháp thu hút chọn lọc đầu tư nước ngoài trong thời gian tới: Về thu hút FDI, chiến lược cạnh tranh của ta chuyển trọng tâm từ ưu đãi thuế sang nâng cao chất lượng môi trường đầu tư và dịch vụ hỗ trợ. Chú trọng phát triển hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế đồng bộ; đảm bảo nguồn điện, quỹ đất sạch, nhân lực chất lượng cao; đồng thời cải cách mạnh thủ tục hành chính sau cấp phép (đất đai, xây dựng, PCCC…) để rút ngắn thời gian triển khai dự án.
Cùng với đó, Việt Nam tận dụng lợi thế của 17 hiệp định FTA đã ký kết để mở rộng thị trường, qua đó thu hút các doanh nghiệp FDI muốn khai thác các ưu đãi thuế quan từ mạng lưới FTA rộng khắp. Nỗ lực đa dạng hóa thị trường xuất khẩu để giảm rủi ro và tăng sức hấp dẫn của Việt Nam.
Tiếp tục mở rộng quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với các quốc gia hàng đầu. Việt Nam cũng tham gia các sáng kiến đối thoại với nhà đầu tư như Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF), Sáng kiến Việt-Nhật… để thường xuyên lắng nghe và cải thiện chính sách.
Thông qua đối thoại và hợp tác đa phương, Việt Nam vừa tranh thủ được hỗ trợ về kỹ thuật, vốn và kinh nghiệm từ đối tác, vừa quảng bá mạnh mẽ hình ảnh một Việt Nam đổi mới, thân thiện với nhà đầu tư. Đây chính là lợi thế mềm trong cạnh tranh thu hút FDI.