Cảnh báo khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế chậm

Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tính đến ngày 20/4, tăng trưởng tín dụng mới đạt 2,57% so với cuối năm 2022. Với mức tăng trưởng 2,57% so với cuối năm ngoái, tăng trưởng tín dụng quý I/2023 mới bằng khoảng 1 nửa so với tốc độ tăng trưởng cùng kỳ năm trước 5,04%.

Cần tiếp tục giảm lãi suất, duy trì cùng lúc các mục tiêu bình ổn tỷ giá và lạm phát
Ảnh minh họa

Trao đổi với phóng viên TBTCVN, TS. Lê Hồng Hạnh - Giảng viên Tài chính, Đại học RMIT Việt Nam cho biết, tốc độ tăng trưởng tín dụng là một trong những chỉ số quan trọng trong nền kinh tế, bởi tín dụng đóng vai trò then chốt hỗ trợ sự phát triển của doanh nghiệp và các hoạt động kinh tế khác.

Tăng trưởng tín dụng cao đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp có thể đầu tư, sản xuất và mở rộng quy mô kinh doanh. Ngược lại, nếu tăng trưởng tín dụng giảm, có thể dẫn tới nguy cơ các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tìm nguồn vốn để hoạt động. Nếu điều này kéo dài có thể dẫn đến suy giảm đầu tư, sản xuất, tăng tỷ lệ thất nghiệp và dẫn tới suy thoái kinh tế.

Theo thống kê của Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn (SSI), mặt bằng lãi suất cho vay vẫn ở mức cao hơn so với thời điểm trước dịch Covid-19, dao động ở mức 10-10,5%/năm cho kỳ hạn 6 tháng và 11-12%/năm cho kỳ hạn 12 tháng cho doanh nghiệp sản xuất thông thường, trong khi lãi suất vay tiêu dùng hay cho vay mua nhà vẫn duy trì ở mức tương đối cao, khoảng 14%/năm.

Theo các chuyên gia, tăng trưởng tín dụng thấp báo hiệu cảnh báo khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế khá chậm đòi hỏi cần phải đẩy nhanh các giải pháp hỗ trợ tiếp cận vốn cho doanh nghiệp.

Tuy nhiên, với mức lãi suất vay trên 10%/năm, nhiều doanh nghiệp ước tính gần như không thể có lãi trong thời điểm hiện nay. Nhiều doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để cầm cự hoạt động thì nay tìm cách bán bớt tài sản để sớm trả 1 phần khoản vay giảm gánh nặng lãi suất, nếu có ý định vay mới thì trì hoãn.

Với mức tăng trưởng hơn 2% trong quý I, tín dụng chưa đạt 1/5 quãng đường để đạt tốc độ tăng trưởng 14-15% năm 2023 như mục tiêu đề ra. Trong khi đó, sản xuất một số ngành công nghiệp chủ lực suy giảm đã khiến nguồn vốn ứ đọng. Vì vậy, cần các giải pháp kích cầu tín dụng để tiếp sức cho doanh nghiệp.

Tác động của chính sách giảm lãi suất có độ trễ

Bình luận về động thái liên tiếp hạ lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước gần đây, TS. Lê Hồng Hạnh cho rằng, đây là một biện pháp cần thiết để giảm bớt áp lực tài chính đối với các doanh nghiệp và hộ gia đình trong bối cảnh nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn cùng lúc và cũng chưa hồi phục sau đại dịch Covid-19.

Tiếp tục giảm lãi suất và duy trì cùng lúc các mục tiêu bình ổn tỷ giá và lạm phát
TS. Lê Hồng Hạnh - Giảng viên Tài chính, Đại học RMIT Việt Nam

Tuy nhiên, theo bà Hạnh, chính sách này cũng có độ trễ trong tác động của nó đến nền kinh tế. Việc hạ lãi suất không đồng nghĩa với việc ngay lập tức các doanh nghiệp và hộ gia đình sẽ có thể tiết kiệm được nhiều chi phí vay và tiêu dùng thêm; cũng không có nghĩa ngay lập tức nhiều doanh nghiệp sẽ đi vay nhiều tiền hơn.

Thời gian để chính sách này có tác động đến nền kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm sự đáp ứng của các tổ chức tín dụng và động lực tăng trưởng của các doanh nghiệp. Thời gian trễ của chính sách giảm lãi suất của Ngân hàng Nhà nước có thể dao động tùy thuộc vào nhiều yếu tố như tình hình kinh tế hiện tại, mức độ vay và cho vay trong nền kinh tế; phản ứng của các tổ chức và cá nhân đối với sự thay đổi lãi suất.

Theo bà Hạnh, thường thì tác động của chính sách giảm lãi suất có thể mất vài tháng, thậm chí hơn một năm (trong điều kiện các yếu tố khác không đổi) để thể hiện tác động trong nền kinh tế. Điều này là do thời gian cần thiết để sự thay đổi lãi suất được truyền tải qua các hệ thống tài chính, ảnh hưởng đến hoạt động cho vay và cho mượn và cuối cùng ảnh hưởng đến chi tiêu của các tổ chức và cá nhân.

Ngoài ra, bà Hạnh cũng cho rằng, với mức lãi suất vay trên 10%/năm, nhiều doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc tăng trưởng và có lãi trong thời gian ngắn. Điều này có thể dẫn đến sự suy giảm về sản xuất, khó khăn trong việc duy trì chi phí hoạt động của các doanh nghiệp. Nhìn lại vào những năm 2012, các doanh nghiệp thời đó đã từng phải vay với lãi suất trung bình khoảng 18%/năm, dù rất khó khăn nhưng tính tới nay vẫn có rất nhiều doanh nghiệp “sống sót”, tồn tại và phát triển.

“Tuy nhiên để tránh khó khăn cho doanh nghiệp và nền kinh tế nói chung, việc tiếp tục giảm lãi suất và duy trì cùng lúc các mục tiêu khác như bình ổn tỷ giá và lạm phát là cần thiết. Ví dụ như việc ban hành Thông tư 02 gần đây của Ngân hàng Nhà nước là một dấu hiệu vô cùng tích cực để hỗ trợ doanh nghiệp cũng như các tổ chức tín dụng”- bà Hạnh nhận định.

Các tổ chức tín dụng vẫn phải đánh giá, phân loại, trích lập dự phòng theo nhóm nợ thực tế của khách hàng

Thông tư 02/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn. Đối tượng của chương trình là những khách hàng gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh và gặp khó khăn trong việc trả nợ các khoản vay phục vụ đời sống, tiêu dùng.

Thông tư giao quyền tự chủ cho các tổ chức tín dụng trong việc xem xét, đánh giá mức độ khó khăn của khách hàng thông qua một số nội dung như doanh thu, thu nhập sụt giảm. Các tổ chức tín dụng vẫn phải đánh giá, phân loại cũng như trích lập dự phòng theo nhóm nợ thực tế của khách hàng.