Tìm lời giải về cơ chế tài chính khả thi cho các dự án PPP
Luật PPP vẫn chủ yếu tập trung trong lĩnh vực giao thông. Ảnh: TL

Đây là những vấn đề được tập trung thảo luận tại Hội thảo “Thúc đẩy đầu tư theo phương thức đối tác công tư trong phát triển hạ tầng một số lĩnh vực kinh tế - xã hội của Việt Nam”, do Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với Hội đồng Lý luận Trung ương, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tổ chức ngày 11/7.

Nghiên cứu sửa đổi quy định về nguồn vốn cho dự án PPP

Tại hội thảo, Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương Đỗ Ngọc An cho biết, thời gian qua, việc triển khai các dự án phát triển hạ tầng xã hội theo phương thức đối tác công - tư ở Việt Nam còn gặp nhiều vướng mắc, chưa được xử lý triệt để, ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường đầu tư PPP nói chung và việc triển khai các dự án PPP mới. Số lượng các dự án mới được triển khai theo quy định của Luật PPP vẫn còn hạn chế, đa phần đều là các dự án chuyển tiếp, chủ yếu tập trung trong lĩnh vực giao thông, ít được triển khai trong các lĩnh vực khác.

Theo ông Dương Bá Đức - Vụ trưởng Vụ Đầu tư (Bộ Tài chính), để làm rõ về thực trạng, những vướng mắc, tồn tại liên quan đến các dự án PPP thời gian qua, Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì rà soát vướng mắc Nghị định số 28/2021/NĐ-CP và đề xuất phương án sửa đổi, bổ sung; báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong quý III/2023.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, Vụ Đầu tư đã chủ động rà soát, xin ý kiến các bộ, ngành, các bên liên quan và qua đó nhận diện được một số vấn đề vướng mắc của dự án PPP, trong đó có: quy định về mức vốn nhà nước tham gia dự án PPP; cơ chế chia sẻ doanh thu; lãi suất vốn vay; đánh giá phương án tài chính…

Liên quan đến mức vốn nhà nước tham gia dự án PPP, có ý kiến cho rằng quy định phần vốn nhà nước tham gia trong dự án PPP tối đa 50% tổng mức vốn đầu tư (Điều 69 Luật PPP) là không phù hợp; một số ý kiến đề nghị bỏ quy định mức trần này, một số ý kiến đề nghị nghiên cứu sửa đổi tăng tỷ lệ này (có thể là 70% tổng mức đầu tư).

Sửa quy định sử dụng nguồn vốn dự phòng ngân sách

Về cơ chế chia sẻ doanh thu giảm, theo Bộ Tài chính, quy định sử dụng nguồn vốn dự phòng ngân sách để xử lý cơ chế chia sẻ doanh thu giảm quy định tại Khoản 3 Điều 83 Luật PPP là chưa phù hợp với quy định của pháp luật ngân sách nhà nước, chưa phù hợp với mục đích sử dùng nguồn ngân sách dự phòng. Do đó, Vụ Đầu tư đề nghị nghiên cứu sửa đổi quy định này theo hướng bố trí một dòng ngân sách trong kế hoạch đầu tư công trung hạn để chia sẻ phần doanh thu giảm.

Theo lãnh đạo Vụ Đầu tư, do tính chất đặc thù của một số dự án giao thông đường bộ có chi phí giải phóng mặt bằng tương đối cao; nên khi dự án đường bộ này thực hiện theo hợp đồng BOT đòi hỏi phần vốn nhà nước hỗ trợ cho dự án có thể phải cao hơn 50% tổng mức đầu tư. Hiện nay, Chính phủ đang nghiên cứu xây dựng luật sửa đổi các luật, trong đó dự kiến đề xuất sửa đổi quy định tháo gỡ vướng mắc này cho các dự án giao thông đường bộ.

Tuy nhiên, để đảm bảo sử dụng vốn nhà nước thật sự hiệu quả, Vụ trưởng Vụ Đầu tư cho rằng cần phải có quy định chặt chẽ về tiêu chí cho phép các dự án đường bộ được áp dụng mức trần vốn nhà nước trên 50% tổng mức đầu tư.

Tín dụng cho PPP tiềm ẩn nhiều rủi ro

Chia sẻ từ lĩnh vực ngân hàng về nguồn vốn cho dự án PPP, bà Đỗ Thị Bích Hồng - Viện Chiến lược (Ngân hàng Nhà nước) cho biết, nguồn vốn vay ngân hàng là kênh chính trong các phương thức tài trợ vốn cho các dự án PPP bởi các dự án này luôn có nhu cầu về vốn lớn. Tuy nhiên, do đặc thù tín dụng ngân hàng đối với các dự án PPP, việc cấp tín dụng đối với lĩnh vực đầu tư này còn nhiều hạn chế.

Thứ nhất, các dự án giao thông đầu tư mới chủ yếu sử dụng vốn ngân sách nhà nước, chỉ có 5 dự án BOT sử dụng vốn tín dụng. Dư nợ tăng trưởng tín dụng có xu hướng giảm dần qua các năm do ngân hàng chủ yếu giải ngân, thu nợ đối với các dự án cũ. Tỷ trọng dư nợ các dự án PPP trên tổng dư nợ cấp tín dụng của nền kinh tế ở mức thấp (chỉ khoảng 1%). Nhiều dự án có doanh thu phí không đạt như phương án tài chính ban đầu.

Thứ hai, so với tín dụng dự án thông thường, điểm khác biệt của tín dụng ngân hàng đối với các dự án PPP là các khoản vay dự án PPP thường ở dạng miễn truy đòi (non - recourse loans) hoặc truy đòi hạn chế (limited recourse loans). Nói cách khác, ngân hàng cho vay mà không có tài sản đảm bảo hoặc bảo lãnh từ các tài sản của dự án. Việc hoàn trả khoản nợ gốc và lãi của ngân hàng chỉ có thể dựa vào dòng tiền hoạt động của dự án.

Để đẩy mạnh chủ trương xã hội hóa đầu tư các dự án PPP, xử lý dứt điểm các khó khăn, vướng mắc trong hoạt động cấp tín dụng với dự án PPP, bà Đỗ Thị Bích Hồng khuyến nghị một số giải pháp.

Cụ thể là, Nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ tăng tính khả thi, hiệu quả của dự án, đảm bảo lựa chọn được nhà đầu tư có năng lực thật sự, giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng trong việc tài trợ đối với các dự án cơ sở hạ tầng lớn, quan trọng, cấp bách (cần có quy định linh hoạt mức vốn nhà nước hỗ trợ dự án phân loại theo từng quy mô, xây dựng cơ chế chia sẻ rủi ro thông qua bảo lãnh doanh thu...).

Đồng thời, tăng cường huy động các nguồn vốn dài hạn, giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng thông qua phát hành trái phiếu trong và ngoài nước, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn ODA vào phát triển các dự án, ưu tiên các nguồn vốn không yêu cầu bảo lãnh của Chính phủ. Nghiên cứu khả năng thành lập quỹ đầu tư cơ sở hạ tầng để quản lý phần vốn nhà nước hỗ trợ dự án PPP…