Đây là nhận xét của TS. Nguyễn Tú Anh, Trưởng ban Chính sách kinh tế vĩ mô – Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) trong cuộc trao đổi với PV TBTCVN về quá trình tái cơ cấu khu vực ngân hàng thời gian qua.
Lạm phát thấp, lãi suất cho vay vẫn cao
Đánh giá chung, TS Nguyễn Tú Anh cho rằng giai đoạn vừa qua, quá trình tái cơ cấu ngân hàng đã đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận.
“Trước khi tái cơ cấu, nguy cơ đổ vỡ hệ thống rất cao, thiếu thanh khoản, quản trị lỏng lẻo, nhiều ngân hàng hiện vẫn đang phải trả giá vì hoạt động lỏng lẻo vừa qua. Sau đó, chúng ta đã gần như loại trừ được nguy cơ đổ vỡ, lãi suất trên hệ thống ngân hàng giảm mạnh so với năm 2011. Quản trị rủi ro trong hệ thống ngân hàng được siết chặt, quy mô vốn của các ngân hàng được nâng cao, lợi nhuận được cải thiện, đó là những điểm sáng của quá trình tái cơ cấu ngân hàng”, TS. Nguyễn Tú Anh nhận xét.
Tuy nhiên, TS. Nguyễn Tú Anh cũng cho rằng dường như chúng ta đang tập trung quá nhiều vào hệ thống ngân hàng mà chưa nhìn trên góc độ tổng thể của nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng là một bộ phận để phục vụ sự phát triển của nền kinh tế. Thời gian qua, lãi suất của hệ thống ngân hàng giảm nhưng giảm chưa đúng như mức cần thiết. “Ví dụ như lạm phát của năm ngoái chỉ khoảng 4%, nhưng lãi suất cho vay khoảng 9 – 10% , như vậy cao hơn lạm phát khoảng 5%. Đây là một mức chênh lệch lớn mà doanh nghiệp khó có thể trang trải”.
![]() |
Cùng với lạm phát giảm mạnh, lãi suất cho vay lại cao thì cho thấy lãi suất thực mà doanh nghiệp phải đi vay rất cao, đây cũng là lý do tín dụng khó đẩy mạnh được. TS Nguyễn Tú Anh |
Bên cạnh đó, sự chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay là khá lớn. Theo TS Nguyễn Tú Anh, lý do là nợ xấu của hệ thống ngân hàng đã được đưa ra ngoại bảng để theo dõi, bằng cách bán cho Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (VAMC). Sau đó các ngân hàng phải trích lập dự phòng từ lợi nhuận để bù đắp dần cho nợ xấu. Khoản chi phí này đã khiến ngân hàng buộc phải huy động thấp hơn, cho vay cao hơn, như vậy chi phí xử lý nợ xấu ở đây vô hình chung rơi vào 2 nhóm người là người gửi tiền và người đi vay.
Nợ xấu rất "khó nói"
“Lãi suất mặc dù đi xuống nhưng chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay vẫn lớn, tỷ trọng chênh lệch có thể lên đến 70%. Cùng với lạm phát giảm mạnh, lãi suất cho vay lại cao thì cho thấy lãi suất thực mà doanh nghiệp phải đi vay rất cao, đây cũng là lý do tín dụng khó đẩy mạnh được”, TS. Nguyễn Tú Anh nói.
Theo số liệu so sánh ROE của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán với ROE của các ngân hàng, lợi nhuận của nhóm ngân hàng cao hơn rõ rệt so với các doanh nghiệp, đặc biệt là các ngân hàng thương mại Nhà nước.
“Có thể thấy, trong khó khăn nhưng lợi nhuận của ngành ngân hàng vẫn cao. Như vậy, rất có thể chi phí của tái cơ cấu ngân hàng đang chuyển sang bên thứ 3 khác”, TS. Nguyễn Tú Anh đánh giá.
Trước đó, bình luận về vấn đề tái cơ cấu ngân hàng tại Hội thảo về tình hình kinh tế vĩ mô 6 tháng tại CIEM (ngày 29/7), TS. Nguyễn Tú Anh cho rằng, nợ xấu hiện đang được thống kê là nợ xấu nội bảng, còn nợ xấu ngoại bảng là nợ xấu mà VAMC đang giữ, chưa kể phần nợ được cơ cấu lại cũng khá lớn. Trong khi đó, cơ chế xử lý nợ xấu với VAMC hiện nay cũng chưa được giải quyết rốt ráo. Sự hạn chế về nguồn lực, tài lực, pháp lực khiến kết quả xử lý nợ xấu chưa rõ ràng.
Về vấn đề này, Viện trưởng CIEM, TS. Nguyễn Đình Cung cũng bình luận, nợ xấu là vấn đề rất “khó nói”. Theo tuyên bố của Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu cuối năm sẽ giảm dưới 3% và như vậy gần như chắc chắn mục tiêu này sẽ đạt được. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hơn các con số là bản chất của nợ xấu ra sao, bản chất việc xử lý thế nào, tác động đến nền kinh tế về trung và dài hạn đến đâu…/.
Hoàng Yến