Ngày 7/8, tại Hà Nội, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính) tổ chức Tọa đàm “Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp như thế nào đến công nghiệp hóa tại Việt Nam?”.
Động lực tăng trưởng quan trọng của kinh tế Việt Nam
Tại tọa đàm, TS. Trần Toàn Thắng - Trưởng Ban Quốc tế và Chính sách hội nhập, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính cho biết, sau gần 40 năm (1987-2025) thu hút FDI, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng cho chiến lược công nghiệp hóa.
![]() |
TS. Trần Toàn Thắng - Trưởng Ban Quốc tế và Chính sách hội nhập, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính phát biểu tại tọa đàm. |
Theo đó, khu vực FDI đã khẳng định vai trò là động lực tăng trưởng quan trọng của kinh tế Việt Nam. Đóng góp của FDI tới tăng trưởng thể hiện qua nhiều khía cạnh, từ việc bổ sung một nguồn vốn lớn cho phát triển kinh tế xã hội, tới mở rộng thị trường thông qua xuất khẩu, lan toả công nghệ và năng suất, thúc đẩy cải cách thể chế. Tính trung bình, tỷ trọng của FDI trong GDP liên tục tăng lên từ mức 18,22% trong giai đoạn 2011-2015, lên 21,06% giai đoạn 2016-2020 và 22,25% trong giai đoạn 2021-2023…
Dòng vốn FDI góp phần ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát TS. Trần Toàn Thắng cho rằng, tác động của FDI tới công nghiệp hóa của Việt Nam là rất tích cực. Góp phần vào tăng trưởng và thu nhập, mở rộng thị trường, hình thành các ngành công nghiệp mới và tạo ra một bức tranh công nghiệp năng động của Việt Nam. Dòng vốn FDI góp phần ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát thông qua việc cung cấp ngoại tệ từ xuất khẩu. |
Có thể nói, khu vực FDI đóng góp trực tiếp và chi phối tuyệt đối về xuất khẩu. Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực này luôn duy trì ở mức rất cao, trung bình khoảng 70-79% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Đóng góp này đã giúp Việt Nam nâng cấp cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, chuyển dịch từ một quốc gia chủ yếu xuất khẩu nông sản, dệt may sang một trung tâm sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm điện tử, công nghệ cao.
Các tập đoàn đa quốc gia như Samsung, Intel, LG, Canon đã biến Việt Nam thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, với các sản phẩm như điện tử, điện thoại và máy tính (FDI chiếm 99% kim ngạch xuất khẩu năm 2013 và 97,74% năm 2024), dệt may (dao động quanh mức 60%), da giày (69-72%) và phương tiện vận tải (81-93%).
Đồng thời, FDI đóng vai trò dẫn dắt, tạo ra các cụm sản xuất chuyên môn hóa. Vai trò này thể hiện thông qua hai cơ chế chính, thứ nhất là hình thành hệ sinh thái xoay quanh các tập đoàn lớn, như tổ hợp Samsung ở Bắc Ninh và Thái Nguyên đã kéo theo hàng trăm nhà cung ứng vệ tinh, hay khu phức hợp THACO Chu Lai là mô hình hợp tác giữa doanh nghiệp nội và FDI.
Thứ hai là vai trò tiên phong khai phá các vùng đất công nghiệp mới, như các dự án dệt may, da giày dịch chuyển về Đồng bằng sông Cửu Long và Bắc Trung Bộ khi chi phí ở trung tâm tăng cao. Việc hình thành các cụm này không chỉ giúp phát triển các ngành công nghiệp chủ lực mà còn tạo ra một hệ sinh thái hỗ trợ, bao gồm các nhà cung cấp, dịch vụ logistics và lao động có kỹ năng, qua đó gia tăng hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn ngành…
Còn theo TS. Bùi Quý Thuấn - Trưởng Ban Nghiên cứu Liên Chi hội Tài chính Khu công nghiệp Việt Nam (VIPFA), cơ cấu FDI đã có sự chuyển dịch tích cực. Từ năm 2010 - 2024, vốn FDI chuyển từ các ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày sang các ngành công nghệ cao, với tỷ trọng ngành điện tử tăng từ 4,1% lên 17,8%. Các lĩnh vực như tài chính, năng lượng tái tạo và dịch vụ giá trị gia tăng cao cũng thu hút vốn mạnh mẽ.
FDI đã thúc đẩy xuất khẩu, với khu vực này chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, giúp Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất và xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao.
Chuyển từ thu hút FDI bằng mọi giá sang cách tiếp cận chủ động
Tuy nhiên, theo TS. Trần Toàn Thắng, bối cảnh trong thời gian tới có cả ảnh hưởng tích cực và tiêu cực tới dòng vốn FDI vào Việt Nam cũng như đóng góp của khu vực này tới công nghiệp hóa. Căng thẳng thương mại và xu hướng phi toàn cầu hoá đang tạo ra sự không chắc chắn về môi trường đầu tư toàn cầu, đồng thời dẫn đến sự tái cấu trúc các dòng vốn vào các nước đang phát triển như Việt Nam. Mặc dù Việt nam đang nổi lên là một địa điểm đầu tư hấp dẫn nhưng những điểm nghẽn về lao động, hạ tầng sẽ là những điểm yếu cốt lõi cho dòng vốn này. Cách mạng Công nghiệp 4.0 cũng là nhân tố tác động cả tích cực và tiêu cực.
![]() |
Toàn cảnh tọa đàm. |
Do vậy, Việt Nam cần có sự thay đổi căn bản trong tư duy chính sách, chuyển từ thu hút FDI bằng mọi giá sang cách tiếp cận chủ động, dẫn dắt và điều hướng dòng vốn FDI phục vụ hiệu quả các mục tiêu quốc gia. Bên cạnh những cải cách về thể chế, hành chính hiện nay, Việt Nam cần có những bước cải cách đột phá trong thu hút và sử dụng FDI.
Trong đó, cần cải tổ toàn diện chính sách ưu đãi đầu tư theo hướng có mục tiêu, dựa trên hiệu quả và có điều kiện ràng buộc: Chấm dứt ưu đãi dàn trải, thay vào đó, xây dựng một khung ưu đãi mới, có chọn lọc cao. Đồng thời, tăng cường năng lực cho doanh nghiệp trong nước và xây dựng ngành công nghiệp hỗ trợ thực chất.
Các chuyên gia cho rằng, dòng vốn FDI vào Việt Nam từ năm 1987 đến nay được đánh giá là nguồn lực thiết yếu, mang đến không chỉ vốn mà còn cả công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý, cơ hội việc làm và mở rộng thị trường xuất khẩu, ngày càng giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. |
Đột phá trong phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao: Thúc đẩy mô hình hợp tác chiến lược "Nhà nước - Nhà trường - doanh nghiệp FDI" một cách thực chất. Khuyến khích các tập đoàn công nghệ lớn tham gia sâu vào quá trình xây dựng chương trình đào tạo, tài trợ phòng thí nghiệm và tiếp nhận sinh viên thực tập. Có chính sách đột phá để thu hút và giữ chân các tài năng công nghệ.
Thiết lập khung quản trị thu hút FDI có sự phối hợp liên ngành, liên vùng: Xây dựng một cơ chế điều phối cấp quốc gia để phân định rõ vai trò giữa trung ương và địa phương, nhằm chấm dứt "cuộc đua xuống đáy" về ưu đãi giữa các tỉnh, đảm bảo thu hút FDI có quy hoạch và chiến lược thống nhất.
Cùng với đó, tăng cường năng lực quản trị môi trường đối với FDI: Siết chặt việc thực thi pháp luật môi trường, áp dụng quy trình đánh giá tác động môi trường một cách độc lập và minh bạch, đồng thời tăng nặng các chế tài xử phạt. Tiếp tục hoàn thiện chính sách để khuyến khích và thu hút FDI xanh, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng tái tạo.
“Nâng cao năng lực thể chế và hiệu quả thực thi chính sách, nâng cao năng lực thẩm định dự án cho cán bộ địa phương. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường minh bạch và quyết liệt giảm chi phí không chính thức để tạo môi trường kinh doanh thực sự công bằng” - TS. Trần Toàn Thắng nhấn mạnh.