Đề xuất đầu tư hơn 161.000 tỷ đồng cho dự án Vành đai 4 Thủ đô, Vành đai 3 TP. Hồ Chí Minh Làm rõ tính khả thi khi triển khai đồng loạt nhiều dự án giao thông

Xin cơ chế đặc thù cho 3 dự án cao tốc phía Nam

Theo tờ trình của Chính phủ, dự án đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu dài 53,7 km qua 2 tỉnh, kết nối thành phố Biên Hòa với cảng biển Cái Mép - Thị Vải; đầu tư giai đoạn 1 với quy mô 4 - 6 làn xe. Dự án đường cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột dài 117,5 km qua 2 tỉnh, kết nối thành phố Buôn Ma Thuột với cảng biển Nam Vân Phong; đầu tư giai đoạn 1 với quy mô 4 làn xe. Dự án đường cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng dài 188,2 km qua 4 tỉnh/thành phố, kết nối thành phố Châu Đốc với cảng biển Trần Đề; đầu tư giai đoạn 1 với quy mô 4 làn xe.

Cả 3 dự án đều được Chính phủ kiến nghị đầu tư theo hình thức đầu tư công; sau khi đưa vào khai thác sẽ thu phí để hoàn trả vốn ngân sách nhà nước. Chính phủ đã xây dựng một số cơ chế chính sách đặc thù và nếu được áp dụng, dự kiến tiến độ các dự án như sau: chuẩn bị đầu tư năm 2022, khởi công năm 2023, dự án Biên Hòa - Vũng Tàu cơ bản hoàn thành năm 2025; dự án Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột, Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng cơ bản hoàn thành một số đoạn có lưu lượng lớn năm 2025 và toàn tuyến năm 2026.

Sơ bộ tổng mức đầu tư các dự án khoảng 84.463 tỷ đồng. Trên cơ sở tiến độ triển khai 3 dự án, dự kiến nhu cầu vốn trong giai đoạn 2021 - 2025 khoảng 60.124 tỷ đồng, chuyển tiếp giai đoạn 2026 - 2030 khoảng 24.339 tỷ đồng. Nguồn vốn giai đoạn 2021 - 2025, Chính phủ dự kiến bố trí từ: Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 đã dự kiến phân bổ cho 3 dự án khoảng 26.147 tỷ đồng; Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 của Bộ Giao thông vận tải sau khi rà soát, sắp xếp lại khoảng 2.203 tỷ đồng; Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội khoảng 9.620 tỷ đồng; Tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách trung ương năm 2021 khoảng 13.796 tỷ đồng; Ngân sách địa phương khoảng 8.358 tỷ đồng.

Dù tỷ trọng vốn của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội chỉ chiếm khoảng 11,3% trong tổng nguồn vốn của 3 dự án nhưng nếu được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư trong kỳ họp thứ 3, Chính phủ cho biết thời gian giải ngân nguồn vốn này chỉ còn khoảng 1 năm. Để đẩy nhanh tiến độ triển khai, Chính phủ kiến nghị 3 dự án được áp dụng các cơ chế chính sách đặc thù được Quốc hội chấp thuận tại Nghị quyết số 43/2022/QH15.

Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải

Các địa phương phải cam kết bố trí vốn cho 3 dự án

Thẩm tra nội dung này, Ủy ban Kinh tế nhất trí với sự cần thiết đầu tư cũng như hình thức đầu tư của 3 dự án. Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị cần đánh giá kỹ tính cấp thiết, khả năng bố trí nguồn lực, đánh giá tác động của việc sử dụng vốn đầu tư công triển khai cùng lúc nhiều dự án hạ tầng đối với lạm phát, khả năng giải ngân, hấp thụ vốn, sự cân đối và hiệu quả trong phân bổ nguồn lực, năng lực quản lý, khả năng gây ra tình trạng khan hiếm và tăng giá nguyên vật liệu.

Về sơ bộ tổng mức đầu tư, một số ý kiến đề nghị cần tiếp tục rà soát kỹ suất đầu tư và so sánh với các dự án cao tốc tương tự để làm rõ sơ bộ tổng mức đầu tư của các dự án này. Ngoài ra, trong thời gian vừa qua, giá các loại vật tư, nhiên liệu tăng cao, do đó cần lưu ý, xem xét, tính toán dự phòng trong tổng mức đầu tư.

Đối với phương án sử dụng vốn, Ủy ban Kinh tế cho rằng đề xuất bố trí vốn từ các nguồn Chính phủ nêu là phù hợp. Tuy nhiên, đối với nguồn vốn ngân sách địa phương (dự kiến tham gia khoảng 8.358 tỷ đồng để tham gia khoảng 50% chi phí giải phóng mặt bằng), Ủy ban Kinh tế đề nghị các địa phương cam kết chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc bố trí nguồn ngân sách địa phương cho 3 dự án.

Một số ý kiến cho rằng việc triển khai thực hiện nhiều dự án đường cao tốc với quy mô yêu cầu kỹ thuật phức tạp trong cùng một thời gian ngắn sẽ cần một nguồn lực rất lớn, trong khi các địa phương được giao triển khai thực hiện 3 dự án cũng chưa có kinh nghiệm về tổ chức thực hiện dự án đường cao tốc. Do đó, Ủy ban Kinh tế nhận thấy việc triển khai 3 dự án sẽ gặp khó khăn trong việc bảo đảm tiến độ, chất lượng. Từ đó, cơ quan thẩm tra đề nghị cần phải đánh giá một cách đầy đủ hơn về khả năng giải ngân, hấp thụ vốn, sự cân đối và hiệu quả trong phân bổ nguồn lực, năng lực quản lý, thi công để có giải pháp kịp thời, đồng bộ. Chính phủ và các địa phương cần cam kết trách nhiệm tổ chức thực hiện bảo đảm hiệu quả, tiến độ, chất lượng cho các dự án này và các dự án quan trọng khác cùng được triển khai, đồng thời cần tăng cường vai trò của Bộ Giao thông vận tải trong việc tổ chức thực hiện.

Phương án thu hồi cũng là vấn đề được lưu ý. Chính phủ dự kiến sau khi các dự án này hoàn thành sẽ thực hiện nhượng quyền thu phí để thu hồi vốn. Tuy nhiên Ủy ban Kinh tế đề nghị làm rõ cơ chế hoàn trả đối với tỷ lệ vốn góp của ngân sách trung ương và địa phương. Đồng thời, đến nay cơ chế nhượng quyền thu phí, tổ chức thu phí các dự án đường cao tốc do Nhà nước đầu tư vẫn chưa được ban hành theo quy định. Vì vậy, cơ quan thẩm tra đề nghị cần khẩn trương rà soát, sửa đổi, hoàn thiện quy định pháp luật về thu phí để bảo đảm thực hiện thành công việc nhượng quyền thu phí.