Ngày 10/3: Giá thép trong nước ổn định, xuất khẩu thép tăng mạnh
Xuất khẩu thép của Việt Nam sang nhiều thị trường tăng mạnh. Ảnh tư liệu

Giá thép trên sàn giao dịch

Tại thời điểm khảo sát vào lúc 8h30 ngày 10/3 (theo giờ Việt Nam), giá thép giao tháng 5/2024 trên Sàn giao dịch Thượng Hải xuống mức 3.621 Nhân dân tệ/tấn, giảm 33 Nhân dân tệ/tấn.

Hợp đồng quặng sắt DCIOcv1 kỳ hạn tháng 5 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc đã chốt phiên với giá cao hơn 1,83% ở mức 890 Nhân dân tệ/tấn (tương đương 123,64 USD/tấn).

Giá quặng sắt SZZFJ4 chuẩn giao tháng 4 trên Sàn giao dịch Singapore (SGX) tăng 0,88% ở mức 116,3 USD/tấn.

Nhập khẩu quặng sắt của Trung Quốc trong 2 tháng đầu năm 2024 đã tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước lên 209,45 triệu tấn. Nguyên nhân chủ yếu do các nhà sản xuất thép nước này tăng cường tích trữ để đáp ứng nhu cầu sản xuất trong dịp Tết Nguyên đán.

Khối lượng nhập khẩu tăng cao đã khiến lượng tồn kho quặng sắt tại các cảng chính của Trung Quốc tăng mạnh, gây áp lực lên giá trong thời gian qua. Theo đó, giá quặng sắt đã giảm 19% trong 2 tháng đầu năm 2024.

Thị trường trong nước

Khảo sát tại SteelOnline.vn ngày 10/3/2024, cụ thể giá thép tại 3 miền như sau:

Giá thép tại miền Bắc: Giá thép Hoà Phát hôm nay với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.340 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 ổn định ở mức 14.530 đồng/kg; thép Việt Ý, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.340 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 14.640 đồng/kg; thép Việt Đức với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.240 đồng/kg, thép thanh vằn D10 CB300 ổn định ở mức 14.640 đồng/kg; thép Việt Nhật (VJS), với dòng thép CB240 ổn định ở mức 14.210 đồng/kg, với dòng thép D10 CB300 duy trì ở mức 14.310 đồng/kg; thép Việt Mỹ (VAS), với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.110 đồng/kg, với dòng thép thanh vằn D10 CB300 ổn định ở mức 14.210 đồng/kg.

Giá thép tại miền Trung: Giá thép Hoà Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.340 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 14.490 đồng/kg; thép Việt Đức, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.750 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 14.850 đồng/kg; thép Việt Mỹ (VAS), với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.410 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 14.260 đồng/kg; thép Pomina, với dòng thép cuộn CB240 ổn định ở mức 14.890 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 15.300 đồng/kg.

Tại miền Nam: Giá thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.340 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 14.530 đồng/kg; thép Pomina với dòng thép cuộn CB240 ổn định ở mức 14.790 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 15.300 đồng/kg; thép Việt Mỹ (VAS), với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.160 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 14.260 đồng/kg; thép Tung Ho, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.260 đồng/kg, với dòng thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 14.410 đồng/kg.

Xuất khẩu thép xu hướng tăng trưởng tích cực: Hiện tại, ASEAN không chỉ là thị trường xuất khẩu thép hàng đầu của Việt Nam, chiếm 32% tổng xuất khẩu, mà còn được tiếp nối bởi Liên minh châu Âu (EU) và Hoa Kỳ, chiếm 28% và 9% tổng xuất khẩu, lần lượt, đánh dấu vị thế quan trọng của Việt Nam trên bản đồ thép toàn cầu.

Dữ liệu mới nhất từ Tổng cục Hải quan cho thấy sự gia tăng đáng kể trong hoạt động xuất khẩu thép của Việt Nam vào tháng 1/2024, tiếp tục xu hướng tăng trưởng tích cực qua bốn tháng liên tiếp. Với việc đạt mốc xuất khẩu 1,16 triệu tấn, tương đương với giá trị 822,65 triệu USD, ngành thép Việt Nam đã ghi nhận một sự tăng trưởng ấn tượng về cả khối lượng và giá trị lần lượt là 7,1% và 7,4% so với tháng trước. So với cùng kỳ năm trước, xuất khẩu thép đã tăng vọt 72,6% về khối lượng và 80,0% về giá trị, phản ánh sự khởi sắc rõ rệt của ngành này trên trường quốc tế.

Giá thép xuất khẩu trung bình cũng đã chứng kiến sự điều chỉnh tăng nhẹ, đạt 709 USD/tấn, tăng 0,3% so với tháng liền kề và 3,9% so với cùng kỳ năm ngoái, báo hiệu sự tăng giá nhẹ nhưng ổn định của sản phẩm thép trên thị trường quốc tế.

Về thị trường đích, EU, Malaysia, Hàn Quốc, và Australia đều ghi nhận mức tăng trưởng đáng kể về khối lượng và giá trị xuất khẩu. Đặc biệt, thị trường Australia tăng trưởng vượt bậc với 251,8% về khối lượng và 220,5% về giá trị, trong khi xuất khẩu sang EU tăng 72,8% về khối lượng và 64,6% về giá trị. Tuy nhiên, một số thị trường như Mỹ, Singapore, và Đài Loan (Trung Quốc) lại ghi nhận sự sụt giảm về cả khối lượng và giá trị xuất khẩu./.