![]() |
Luật sư Lê Văn Tiến - Đoàn Luật sư TP. Hà Nội |
Trả lời: Pháp luật Việt Nam đã có nhiều quy định điều chỉnh về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực chứng khoán như Luật Chứng khoán 2019, Luật Doanh nghiệp 2020, Luật Đầu tư 2020 và các quy định liên quan. Trường hợp có dấu hiệu lừa đảo trong đầu tư chứng khoán thì Bộ Luật hình sự năm 2015 cũng có các quy định liên quan đến nhóm tội danh này, bao gồm: Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175, Bộ Luật hình sự năm 2015) và lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174, Bộ Luật hình sự năm 2015).
Trong đó, theo khoản 1 Điều 174 Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Phổ biến nhất, thủ đoạn gian dối trong đầu tư chứng khoán thời gian vừa qua là việc các đối tượng thường lập ra các phần mềm chứng khoán giả mạo thành các phần mềm chứng khoán được cấp phép hoạt động để lừa tiền nhà đầu tư./.