Khai mạc Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV Chủ tịch Quốc hội: Đánh giá công tâm, khách quan, chính xác trong ghi phiếu tín nhiệm Tăng trưởng cả năm 2023 dự báo đạt trên 5%

Đầu tư tư nhân tăng bằng 1/6 mức tăng trước đại dịch

Đánh giá về tình hình năm 2023, Chủ nhiệm Vũ Hồng Thanh nêu rõ, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm; tăng trưởng kinh tế phục hồi.

Dự báo cả năm 2023, tăng trưởng GDP đạt khoảng 5%, mặc dù thấp hơn chỉ tiêu đề ra nhưng vẫn là mức khá cao so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân ước tăng 3,5%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra khoảng 4,5%.

Vốn đầu tư toàn xã hội ước tăng 6,8% so với năm 2022; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu ước đạt hơn 700 tỷ USD, xuất siêu ước khoảng 15 tỷ USD; tiêu dùng tăng trưởng tích cực. Nợ công, nợ Chính phủ, bội chi NSNN được kiểm soát.

Việc triển khai các dự án lớn, trọng điểm được quan tâm chỉ đạo nhằm đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đến hết tháng 9 đạt 51,38% kế hoạch, cao hơn cùng kỳ năm 2022 khoảng 4,68% (46,7%), về số tuyệt đối cao hơn gần 110 nghìn tỷ đồng.

Nhiều công trình hạ tầng giao thông trọng điểm, quan trọng quốc gia được tập trung đẩy nhanh tiến độ; hạ tầng đô thị tiếp tục được hoàn thiện; thu hút vốn đầu tư nước ngoài tích cực hơn; thị trường tiền tệ, tín dụng cơ bản ổn định, mặt bằng lãi suất giảm.

Xem xét tính khả thi của mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2024
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo

Bên cạnh kết quả đạt được, Ủy ban Kinh tế cũng đề nghị quan tâm, tập trung đánh giá kỹ hơn một số vấn đề.

Đó là, ước cả năm 2023 có 5/15 chỉ tiêu không đạt mục tiêu đề ra (năm 2022 có 2/15 chỉ tiêu không đạt), trong đó chỉ tiêu tốc độ tăng năng suất lao động xã hội không đạt năm thứ 3 liên tiếp. Các động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế chậm lại, thậm chí suy giảm và đang chịu áp lực rất lớn từ bên ngoài. Đầu tư tư nhân 9 tháng tăng 2,3%, chỉ bằng khoảng 1/6 mức tăng trước đại dịch. Công nghiệp chế biến, chế tạo giảm tốc khá mạnh…

Một số điểm nghẽn chưa được tháo gỡ hiệu quả. Thủ tục hành chính tuy đã được cắt giảm nhưng trong một số lĩnh vực vẫn còn rườm rà, phức tạp, việc ban hành thông tư, quy chuẩn kỹ thuật còn bất cập gây khó khăn cho người dân, doanh nghiệp. Tiến độ lập, triển khai các quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia đã có những kết quả tích cực (90/110 quy hoạch đã được thẩm định) nhưng vẫn chậm so với yêu cầu, gây áp lực cho công tác phê duyệt, quyết định quy hoạch trong những tháng cuối năm (đến nay mới có 16/39 quy hoạch ngành quốc gia và 14/63 quy hoạch tỉnh được phê duyệt, quyết định).

Nhấn mạnh vấn đề chậm giải ngân cần phải được làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm để sớm khắc phục, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết: “Có ý kiến cho rằng nguồn lực của Việt Nam bị dàn trải, chia nhỏ cho các cơ quan, địa phương dẫn đến có quá nhiều dự án quy mô nhỏ có thể bị trùng lặp về mục tiêu, chỉ phù hợp với quy mô doanh nghiệp nhỏ”.

Nền kinh tế khát vốn nhưng khó hấp thụ vốn, mặc dù mặt bằng lãi suất huy động, lãi suất cho vay giảm nhưng tăng trưởng tín dụng đến ngày 29/9/2023 chỉ tăng 6,92%. Trong năm 2023, Ngân hàng Nhà nước đã 4 lần điều chỉnh lãi suất điều hành với mức giảm 0,5-2,0%/năm nhưng lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới ở thời điểm cuối tháng 8/2023 chỉ giảm khoảng 1,0% so với cuối năm 2022.

Giải ngân vốn đầu tư công đến hết tháng 9 đạt 51,38% kế hoạch, cao hơn 4,68% so với cùng kỳ nhưng còn 17 bộ, cơ quan trung ương chỉ giải ngân dưới 10%; giải ngân các chương trình mục tiêu quốc gia đạt 46,77% kế hoạch. Tuy nhiên, số giải ngân bao gồm các số chuyển nguồn từ năm trước chuyển sang năm 2023, số tăng thu bổ sung dự toán năm 2023 nên thực chất tỷ lệ thực hiện và giải ngân kế hoạch năm 2023 thấp hơn mức Chính phủ báo cáo.

Khó khăn từ bên ngoài khiến các yếu kém của nền kinh tế bộc lộ rõ hơn

Về nguyên nhân, Ủy ban Kinh tế cho rằng, bối cảnh thế giới và trong nước đặt ra nhiều thách thức trong công tác điều hành chính sách tiền tệ, tài khóa và chính sách vĩ mô khác.

Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, hạn chế trong thời gian vừa qua là do tác động, ảnh hưởng nặng nề của các yếu tố bất lợi từ bên ngoài và những hạn chế, bất cập từ nội tại nền kinh tế tích tụ trong thời gian dài chưa được xử lý dứt điểm, trong khi nước ta là nước đang phát triển, nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi, quy mô còn khiêm tốn, độ mở lớn, sức chống chịu với các cú sốc từ bên ngoài và khả năng cạnh tranh còn hạn chế.

Các biến động tiêu cực từ bên ngoài khiến những hạn chế, bất cập, yếu kém về cơ cấu kinh tế, năng lực sản xuất trong nước, thị trường tài chính - tiền tệ bộc lộ rõ hơn. Công tác dự báo chưa sát, vai trò quản lý nhà nước, phản ứng chính sách trong một số trường hợp còn bị động; hiệu quả chính sách có độ trễ. Việc tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách, thực thi công vụ vẫn là khâu yếu; chậm phản ứng chính sách đối với các biến động của nền kinh tế, cơ quan thẩm tra đánh giá.

Xem xét tính khả thi của mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2024
Các đại biểu tham dự phiên khai mạc Kỳ họp thứ 6 sáng 23/10.

Đối với năm 2024, Ủy ban Kinh tế cơ bản đồng tình với các định hướng lớn, mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cho cả năm 2024 như báo cáo của Chính phủ.

Bên cạnh đó, Ủy ban Kinh tế đề nghị xem xét, đánh giá tính khả thi của mục tiêu tăng trưởng GDP cũng như việc hoàn thành mục tiêu cả nhiệm kỳ; đánh giá kỹ hơn việc lập dự toán NSNN, cân nhắc xây dựng dự toán thu NSNN tích cực hơn để tăng chi đầu tư phát triển và giảm bớt bội chi; nghiên cứu, bổ sung chỉ tiêu phát triển nhà ở xã hội theo Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị.

Về nhiệm vụ, giải pháp, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ, các cấp, các ngành cần tập trung khắc phục những tồn tại, bất cập, vướng mắc về kinh tế - xã hội được nêu ra trong báo cáo thẩm tra, báo cáo của Chính phủ và phải gắn với định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh.

Năm 2024, Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng GDP khoảng 6 - 6,5%; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.700 - 4.730 USD; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 24,1 - 24,2%. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4-4,5%.