Nền tảng vững chắc có thể giảm rủi ro "sốc tăng trưởng"

Giải pháp hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số phù hợp trong bối cảnh đất nước còn nhiều thách thức là chủ đề được các chuyên gia đầu ngành phân tích, thảo luận sôi nổi tại cuộc Tọa đàm đối thoại chính sách với chủ đề: “Định hướng và giải pháp cho tăng trưởng kinh tế cao và bền vững đến năm 2045”, do Đại học Kinh tế quốc dân phối hợp với Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương tổ chức sáng 3/6.

Ba kịch bản phát triển cho Việt Nam đến năm 2045
GS.TS Phạm Hồng Chương, Giám đốc Đại học Kinh tế quốc dân phát biểu khai mạc cuộc toạ đàm.

Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, phân tích mô hình thực tại của Việt Nam, GS.TS Trần Thị Vân Hoa, Đại học Kinh tế quốc dân, và nhóm nghiên cứu đã đưa ra 3 kịch bản phát triển của Việt Nam đến năm 2045.

Trong đó, kịch bản A là mô hình “khởi động nhanh”. Kịch bản này gồm 3 giai đoạn tăng trưởng là giai đoạn 2025 - 2029 với GDP 11%/năm, giai đoạn 2030 - 2037 với GDP 9%/năm, giai đoạn 2038 - 2045 với GDP 7 - 8%/năm. Ưu điểm của kịch bản này là tận dụng động lực ban đầu, thời gian dài điều chỉnh, nhưng áp lực lớn và có thể gây “kiệt sức” tăng trưởng trong 5 năm đầu.

Trong các kịch bản này, GS.TS. Trần Thị Vân Hoa gợi ý lựa chọn kịch bản C, do kịch bản này có giai đoạn chuẩn bị kéo dài đảm bảo nền tảng vững chắc, cải cách toàn diện, phù hợp với chu kỳ phát triển tự nhiên, giúp giảm rủi ro "sốc tăng trưởng" và mất cân đối.

Kịch bản B với mô hình “tăng tốc kéo dài” cũng có 3 giai đoạn tăng trưởng là giai đoạn 2025 - 2031 với GDP 11%/năm, giai đoạn 2032 - 2038 với GDP 8,5 - 9%/năm, giai đoạn 2039 - 2045 với GDP 6,5 - 7,5%/năm. Với kịch bản này, ưu điểm là có thời gian chuẩn bị dài nên áp lực phân bổ đều, nhưng lại khó duy trì động lực tăng trưởng cao trong thời gian dài.

Ở kịch bản C, mô hình là “sóng tăng trưởng”. Kịch bản này gồm 3 giai đoạn tăng trưởng là giai đoạn 2025 - 2035 với 2 phân kỳ là 2025 - 2030 – phân kỳ chuẩn bị với GDP 8 - 10%/năm, 2031 - 2035 – phân kỳ tăng tốc với GDP 11-12%/năm. Giai đoạn 2036 - 2040 có GDP 8,5 - 9%/năm, giai đoạn 2041- 2045 có GDP 6,5 - 7,5%/năm.

Ba kịch bản phát triển cho Việt Nam đến năm 2045
GS.TS. Trần Thị Vân Hoa trình bày tại cuộc toạ đàm.

Theo TS Đặng Thị Hoài, trong bối cảnh thực hiện "bộ tứ chiến lược" tại các nghị quyết của Đảng được ban hành gần đây, cùng với công cuộc cải cách bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, tạo đột phá về tăng năng suất.

Bộ máy tinh gọn cùng với tư duy mới về xây dựng hệ thống luật pháp, về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển kinh tế tư nhân góp phần hình thành khung khổ thể chế thuận lợi cho môi trường kinh doanh hấp dẫn. Việc sát nhập tỉnh sẽ tháo bỏ rào cản về chia cắt nguồn lực, vướng mắc trong thúc đẩy liên kết vùng, giúp phân bổ và sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn. Đặc biệt, tư duy mới trong phát triển kinh tế tư nhân sẽ khơi dậy và phát huy được tinh thần kinh doanh năng động, sáng tạo của khu vực này, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất.

Nâng cao hiệu quả chi tiêu công để tăng dư địa tài khoá

Nhìn từ kinh nghiệm thế giới, PGS.TS Phạm Thế Anh cho rằng, Việt Nam có thể học hỏi sâu sắc từ kinh nghiệm phát triển của các nước Đông Á, đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore, trong việc hoạch định và thực thi các chiến lược để đạt được tăng trưởng kinh tế cao.

Bài học quan trọng đầu tiên là vai trò định hướng mạnh mẽ của nhà nước trong việc xác định các ngành kinh tế mũi nhọn, xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn và tạo ra các chính sách hỗ trợ cụ thể về thuế, tín dụng, và môi trường kinh doanh thuận lợi.

Ba kịch bản phát triển cho Việt Nam đến năm 2045
PGS.TS Phạm Thế Anh trình bày tại cuộc toạ đàm.

Nếu không có những đột phá chính sách, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể vẫn sẽ tiếp tục phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, tốc độ tăng trưởng chỉ ở mức vừa phải và khó để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.

“Đổi mới mô hình tăng trưởng để tăng cường nội lực và giảm thiểu các rủi ro từ bên ngoài là điều cấp thiết trong bối cảnh hiện nay”, PGS.TS Phạm Thế Anh nhấn mạnh.

Việc Việt Nam dàn trải hoạt động xuất khẩu trên nhiều ngành nghề, dù có thể mang lại tổng doanh thu xuất khẩu ấn tượng, nhưng lại tiềm ẩn nhiều hạn chế và rủi ro. Một chiến lược xuất khẩu tập trung vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao sẽ mang lại lợi ích bền vững hơn. Xuất khẩu các sản phẩm thâm dụng công nghệ, kỹ năng và hàm lượng tri thức cao không chỉ tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn trên mỗi đơn vị sản phẩm, mà còn giảm đáng kể sự phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu và linh kiện, từ đó cải thiện cán cân thương mại.

Hơn nữa, các ngành hàng giá trị gia tăng cao thường có lợi thế cạnh tranh dựa trên năng lực đổi mới và chất lượng, ít bị ảnh hưởng bởi các biện pháp thuế quan và phòng vệ thương mại từ các quốc gia nhập khẩu so với các mặt hàng thô hoặc gia công đơn giản, vốn dễ bị thay thế và cạnh tranh về giá.

Bên cạnh đó, các quốc gia Đông Á thành công đều đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng nền tảng vững chắc cho tăng trưởng thông qua đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng hiện đại (giao thông, năng lượng, viễn thông) và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Việt Nam cần tăng cường đầu tư công một cách hiệu quả vào các dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm, đồng thời cải thiện hệ thống giáo dục và đào tạo để nâng cao kỹ năng cho người lao động, đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế đang phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao.

Để có đủ nguồn lực tài chính cho các dự án hạ tầng lớn, yếu tố then chốt để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số, Việt Nam cần thực hiện đồng thời các giải pháp để nâng cao hiệu quả chi tiêu công, thực hiện sự dịch chuyển hợp lý giữa các khoản chi và khai thác các nguồn thu mới bền vững thay thế cho các nguồn thu kém bền vững.