trang 25

Ảnh: minh họa

PGS.TS. Lê Xuân Trường, Học viện Tài chính:

Các đề xuất là hợp lý, cần thiết, phù hợp thực tiễn và thông lệ quốc tế

ong truong

PGS.TS. Lê Xuân Trường

Cần nhìn nhận đề xuất tăng thuế GTGT trong tổng thể các đề xuất sửa đổi, bổ sung các luật thuế. Theo đó, rất nhiều đề xuất khác nhằm giảm nghĩa vụ thuế và thúc đẩy sản xuất, kinh doanh như: Giảm thuế suất đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa từ 20% xuống 17%; cho phép bù trừ lãi của hoạt động chuyển nhượng bất động sản với các hoạt động sản xuất, kinh doanh khác; cho phép hoàn thuế đối với trường hợp lũy kế thuế đầu vào chưa khấu trừ hết từ 12 tháng hoặc 4 quý trở lên…

Đề xuất tăng thuế suất thuế GTGT được đưa ra trong bối cảnh Bộ Tài chính đã đề xuất Chính phủ thực hiện hàng loạt các biện pháp kiểm soát chi tiêu công và tiết kiệm ngân sách.

Tôi cho rằng, nên mạnh dạn đưa thêm vào diện chịu thuế GTGT đối với một số hàng hóa, dịch vụ khác nữa sao cho đảm bảo đối tượng không chịu thuế GTGT chỉ còn lại khoảng từ 7 đến 8 nhóm theo thông lệ quốc tế. Làm như vậy, vừa mở rộng cơ sở thuế, vừa giải quyết được những vướng mắc trong thực tiễn khi phải hướng dẫn những trường hợp không thể xác định là đối tượng chịu thuế hay không chịu thuế do vừa phân biệt theo tính chất lý hóa, vừa phân biệt theo mục đích sử dụng của sản phẩm. Đồng thời, sửa đổi theo hướng này sẽ tạo thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, giảm bớt những tác động méo mó.

Về thuế TTĐB, theo tôi cần nghiên cứu mở rộng thêm diện chịu thuế, ngoài đề xuất đưa vào diện chịu thuế TTĐB đối với nước ngọt, thì có thể nghiên cứu bổ sung thêm mỹ phẩm và dịch vụ thẩm mỹ vào diện chịu thuế TTĐB. Còn về thuế TNDN, nên nghiên cứu giảm bớt các ưu đãi thuế. Các ưu đãi về thuế TNDN hiện nay đang quá rộng và phức tạp.

Chuyên gia kinh tế Phạm Sỹ An, Viện Kinh tế Việt Nam:

Ngân sách chi nhiều do sức ì thể chế

ong an

Chuyên gia kinh tế Phạm Sỹ An

Chi ngân sách gồm có chi cho đầu tư phát triển và chi thường xuyên, trong đó chi thường xuyên chiếm tỷ trọng rất lớn, khoảng 65 - 70% trong tổng chi ngân sách nhà nước.

Thu ngân sách đang chịu áp lực rất lớn vì thu từ dầu thô giảm mạnh và thu từ hoạt động xuất nhập khẩu giảm do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thu ngân sách áp lực giảm mạnh cùng với chi ngân sách giảm không mạnh tạo nên áp lực tăng bội chi ngân sách.

Để giảm bội chi ngân sách, một số nhà kinh tế khuyến nghị nên giảm chi thường xuyên. Khuyến nghị này đã được đề xuất từ rất lâu nhưng tiến trình giảm chi thường xuyên diễn ra rất chậm. Nhưng vì sức ì thể chế nên nếu quyết tâm giảm thì giảm chi thường xuyên cũng chỉ có thể diễn ra từ từ, đòi hỏi mất nhiều thời gian.

Vậy nếu chi ngân sách không thể giảm trong ngắn hạn trong khi thu ngân sách đang chịu sức ép giảm thì Bộ Tài chính phải làm gì để bù đắp cho bội chi ngân sách?

Có 3 nguồn bù đắp cho thâm hụt ngân sách: In tiền, vay nợ và tăng thuế.

Trong lịch sử nước ta và thế giới đã chứng minh rằng: In tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách - tạo ra hệ lụy vô cùng tai hại cho nền kinh tế. In tiền bù đắp thâm hụt ngân sách có thể tạo ra lạm phát và lạm phát cũng là một loại thuế đánh vào thu nhập của người dân (gọi là “thuế đúc tiền”). Loại thuế này là thuế lũy thoái; người nghèo và người thu nhập thấp phải gánh chịu nặng nề hơn so với người giàu.

Vay nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách sẽ làm tăng lãi suất trên thị trường và cũng tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Hơn nữa, vay nợ rốt cục cũng phải trả và thế hệ tương lai sẽ phải trả khoản nợ này. Trong khi đó nợ công đang tăng lên nhanh chóng những năm gần đây.

Nếu như in tiền tạo ra thuế đúc tiền là hình thức đánh thuế mà người dân khó nhận thấy hay vay nợ cũng tạo ra chi phí người dân khó nhận thấy thì tăng thuế sẽ dễ nhận biết hơn.

Nhưng trong 3 cách bù đắp cho thâm hụt ngân sách, có lẽ Bộ Tài chính đã phải viện đến các cách thức tài trợ cho bội chi ngân sách bổ sung lẫn nhau, trong đó gồm cả việc tăng thuế và/hoặc mở rộng cơ sở đánh thuế.

Tổng Thư ký Diễn đàn kinh tế tư nhân, chuyên gia kinh tế Đào Huy Giám:

Tăng thuế GTGT, giảm thuế thu nhập là cách làm phù hợp với thế giới

ong giam

Chuyên gia kinh tế Đào Huy Giám

Là một chuyên gia kinh tế và hoạch định chính sách thương mại trong đó có chính sách thuế, tôi đánh giá tích cực về chương trình cơ cấu lại các khoản thuế được nêu trong dự thảo của Bộ Tài chính.

Điều chỉnh thuế GTGT, thuế suất tăng lên áp dụng chung với mọi hàng hóa và dịch vụ lưu thông trên thị trường Việt Nam, kể cả hàng nhập khẩu, không tác động đến đến hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu, sản phẩm được hưởng ưu đãi theo chính sách phát triển, do vậy không trực tiếp làm giảm sức cạnh tranh của hầu hết DN.

Trong điều kiện một số nguồn thu chính trước đây đang giảm nhanh, cần cơ cấu lại nguồn thu phù hợp với quy luật và thực tế phát triển. Do vậy tôi cho rằng việc xem xét tăng thuế GTGT, đưa ra một lộ trình tăng dần, gắn liền với trách nhiệm chứng minh chất lượng và hiệu quả quản lý nguồn lực công là cần thiết.

Về cơ bản đề án của Bộ Tài chính phù hợp với thông lệ phổ biến trên quốc tế, với bối cảnh kinh tế chính sách trong giai đoạn hiện nay.

Chính phủ đã và đang hành động quyết liệt để nâng cao chất lượng và hiệu quả quản trị nguồn lực này, tạo nguồn cho các chương trình ưu tiên trong nỗ lực cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng phát triển. Khi những yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả quản trị nguồn lực công được quan tâm thực hiện, tôi tin rằng dự án sửa đổi thuế sẽ được DN, người dân chia sẻ. Đề án có cơ hội lớn sẽ thành công, hơn thế nữa còn đóng góp nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, DN, bảo đảm thu nhập thực của người dân tăng lên bền vững.

PGS. TS. Lý Phương Duyên, Học viện Tài chính:

Nhiều nội dung ưu đãi thuế

ba duyen

PGS. TS. Lý Phương Duyên

Trong nội dung sửa đổi 5 luật thuế, Ban soạn thảo đã sửa đổi thuế hướng giảm thuế suất thuế TNDN cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) để đáp ứng và tương thích với Luật Hỗ trợ DNNVV vừa được Quốc hội ban hành.

Đồng thời, đã đưa vào quy định phương pháp nộp thuế GTGT và thuế TNDN đơn giản cho DN siêu nhỏ. Những quy định này có thể coi là một sự hỗ trợ về lợi nhuận cho các DNNVV dựa trên cơ chế ưu đãi lợi nhuận - một trong hai cơ chế khi thực hiện ưu đãi thuế nói chung, phù hợp với xu hướng của nhiều nước trong khu vực và thế giới.

Dự thảo còn bổ sung quy định miễn, giảm thuế cho các cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc chung thành lập theo quy định của Luật Hỗ trợ DNNVV. Điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với không chỉ các DN khởi nghiệp đổi mới sáng tạo mà còn có tác động đối với cả hệ sinh thái khởi nghiệp.

Đối với Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN), Bộ Tài chính cũng đề nghị sửa đổi 8 nội dung, trong đó có một số nội dung liên quan đến ưu đãi thuế rất rõ nét. Đó là bổ sung quy định không thu thuế TNCN đối với thu nhập từ lợi tức cổ phần của thành viên Hợp tác xã nông nghiệp, cá nhân là nông dân ký kết hợp đồng với DN tham gia “Cánh đồng lớn”; bổ sung chính sách giảm 50% thuế TNCN cho nhân lực công nghệ cao làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin, nông nghiệp, chế biến nông sản.

Có thể thấy, những sửa đổi bổ sung này thống nhất, đồng bộ với quan điểm của Chính phủ nói chung và của Luật Thuế TNDN nói riêng trong việc hỗ trợ khởi nghiệp, phát triển công nghệ cao và lĩnh vực nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay.

KT (tổng hợp)