Lực lượng hải quan thực hiện kiểm tra thực tế hàng nhập khẩu tại cảng Hải Phòng.

Lực lượng hải quan thực hiện kiểm tra thực tế hàng nhập khẩu tại cảng Hải Phòng. Ảnh: Hải Anh

Góp ý cho đề án, ông Gregory Leon - Giám đốc Phòng Tăng trưởng kinh tế và quản trị nhà nước, Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tại Việt Nam, có đôi điều chia sẻ với phóng viên TBTCVN.

* PV: Thưa ông, USAID đã và đang hợp tác với Bộ Tài chính trong việc áp dụng và triển khai các hoạt động cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực XNK, thực thi Hiệp định tạo thuận lợi thương mại của WTO mà Việt Nam là thành viên. Với tư cách là chuyên gia USAID, ông đánh giá thế nào về dự thảo Đề án cải cách mô hình KTCL, KTATTP hàng hóa nhập khẩu đang được Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan thực hiện?

- Ông Gregory Leon: Đề án này sẽ tạo cơ hội tăng cường áp dụng quản lý rủi ro trong việc thực hiện thủ tục KTCL và ATTP đối với hàng hóa nhập khẩu, do đó có khả năng giúp giảm số lượng các lô hàng nhập khẩu thuộc diện phải KTCN.

Khi cơ quan hải quan (CQHQ) trở thành đầu mối KTCL và ATTP đối với hàng hóa nhập khẩu tại cửa khẩu, các doanh nghiệp (DN) có hàng hóa thuộc diện phải KTCL và ATTP sẽ chỉ cần làm việc với một cơ quan duy nhất khi thông quan hàng hóa. CQHQ có thể giải phóng và thông quan nhiều lô hàng nhập khẩu hơn trên cơ sở chỉ kiểm tra hồ sơ trong nhiều trường hợp (do áp dụng quản lý rủi ro), tránh việc nhiều các cơ quan khác cùng tham gia kiểm tra, khiến cho quy trình thông quan bị chậm lại.

Ông Gregory Leon
Ông Gregory Leon

Đề án được triển khai sẽ giúp nhân rộng các thực tiễn tốt đã được triển khai tại Việt Nam như tại Nghị định 15/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật ATTP, Nghị định 74/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và Nghị định 85/2019/NĐ-CP quy định về thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa quốc gia, cơ chế một cửa ASEAN và KTCN đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

Điểm đáng chú ý nữa là dự thảo đề án đề cập đến áp dụng cách tiếp cận hoàn toàn mới, theo đó sẽ xác định hàng hóa nhập khẩu thuộc diện KTCL, KTATTP dựa vào lịch sử nhập khẩu hàng hóa và chất lượng hàng hóa chứ không chỉ dựa vào mức độ tuân thủ của DN. Cách tiếp cận này giúp giảm việc KTCL nhiều lần, đối với từng lô hàng. Đây là một bước cải cách to lớn, làm thay đổi căn bản cách thức KTCL hiện hành và có thể giúp giảm số lô hàng phải KTCL ít nhất là 50%.

* PV: Thưa ông, so với các phương thức KTCN hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam hiện nay, dự thảo đề án này có những điểm mới cải cách đáng chú ý nào?

- Ông Gregory Leon: Các cuộc khảo sát gần đây của Tổng cục Hải quan với sự hỗ trợ của Dự án Tạo thuận lợi thương mại do USAID tài trợ cho thấy, khâu hậu kiểm trên thị trường sau thông quan còn chưa hiệu quả, để lại nhiều rủi ro cho người tiêu dùng.

Theo kinh nghiệm của Hoa Kỳ, khi chính phủ ủy quyền cho cơ quan hải quan KTCL hàng hóa nhập khẩu tại cửa khẩu, các cơ quan đối tác thuộc chính phủ khác như Cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm, Bộ Nông nghiệp... đã thiết lập một hệ thống và cơ chế hậu kiểm rộng khắp trên toàn quốc để đảm bảo chất lượng hàng hóa nhập khẩu, phát hiện các dấu hiệu bất thường và các hoạt động vi phạm pháp luật.

Hơn nữa, đề án được thực hiện sẽ giúp tăng cường minh bạch thông tin thông qua việc công bố công khai trên Cổng thông tin một cửa quốc gia (NSW) danh mục hàng hóa thuộc diện KTCL và ATTP và các hàng hóa đủ điều kiện để được miễn giảm kiểm tra sau khi đã có 3 lần liên tiếp đạt yêu cầu nhập khẩu.

Chúng tôi dự đoán mô hình KTCL, KTATTP mới sẽ giúp giảm thủ tục KTCL và ATTP đối với hàng nhập khẩu, đẩy nhanh việc thông quan giải phóng hàng hóa và giảm các chi phí cho DN.

* PV: Về việc kiểm soát chất lượng hàng hóa XNK có sự tham gia của các cơ quan chuyên ngành, theo ông, cơ quan hải quan cần làm gì để đề án đạt được hiệu quả như mong muốn?

- Ông Gregory Leon: Để triển khai đề án này, CQHQ cần đảm bảo rằng các DN nắm được các nội dung thay đổi trong đề án và có sự chuẩn bị đầy đủ cho những thay đổi đó. Các thực tiễn tốt về thủ tục và quy trình thực hiện cần được công bố công khai.

Đồng thời, CQHQ cần tập trung vào khía cạnh nguồn nhân lực và đảm bảo rằng các cán bộ hải quan được đào tạo một cách đầy đủ để có thể thực hiện các nhiệm vụ mới được quy định trong dự thảo đề án, như là kiểm tra hồ sơ, kiểm tra thực tế hàng hóa, lấy mẫu và thử nghiệm (nếu có). Đồng thời, cần đảm bảo rằng trong quá trình xây dựng và thực hiện, dự thảo đề án không được tạo ra các rào cản mới cho thương mại.

Một điểm nữa là CQHQ cần xây dựng một nền tảng công nghệ thông tin (CNTT) đáng tin cậy để phục vụ cho quy trình quản lý rủi ro tích hợp thông qua việc huy động cán bộ từ các bộ ngành có liên quan cùng tham gia trong hệ thống đó. CQHQ cũng cần đảm bảo rằng hệ thống CNTT hải quan có thể tương tác và kết nối với Cổng thông tin NSW của Việt Nam để cho phép tự động chia sẻ và trao đổi dữ liệu.

Kinh nghiệm của Hoa Kỳ cho thấy, khi chuyển chức năng KTCN tại cửa khẩu từ các cơ quan bộ, ngành thuộc Chính phủ cho CQHQ, các bên có liên quan cùng tham gia xây dựng và ký các biên bản ghi nhớ để mô tả những thay đổi trong thủ tục cũng như quy định vai trò và trách nhiệm từng bên liên quan.

* PV: Xin cảm ơn ông!

USAID khuyến nghị CQHQ cần thực hiện ký các biên bản ghi nhớ (hoặc dưới dạng các văn bản pháp lý khác được chấp nhận tại Việt Nam) với các cơ quan chính phủ để mỗi bên đều nhận thức đầy đủ về vai trò và trách nhiệm của mình. Các bộ, ngành sẽ chịu trách nhiệm xây dựng chính sách và chiến lược về KTCL, KTATTP đối với hàng nhập khẩu, nhưng để hệ thống làm việc hiệu quả cần trao đổi thông tin cởi mở với CQHQ cũng như cán bộ hải quan phải được đào tạo về các kỹ thuật và kỹ năng trong kiểm tra, lấy mẫu và thử nghiệm.

Song Linh (thực hiện)