Xăng dầu đang chịu các sắc thuế ra sao?

Từ 15h ngày 21/2/2022, mỗi lít xăng tăng 960 đồng. Ở kỳ điều hành này, Liên Bộ Công thương - Tài chính đã quyết định chi 250 đồng từ quỹ để bù cho mỗi lít xăng E5 RON 92; RON 95 là 100 đồng. Đồng thời, không trích Quỹ bình ổn giá xăng dầu cho tất cả mặt hàng, trừ dầu madut trích 300 đồng mỗi kg vào Quỹ bình ổn giá xăng dầu.

Hiện xăng dầu chỉ chịu các loại thuế, không thu phí và lệ phí nộp ngân sách. Các khoản thuế gồm: thuế nhập khẩu (với xăng dầu nhập khẩu), thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) (chỉ thu đối với xăng, không thu với dầu) và thuế bảo vệ môi trường (BVMT).

Giảm thuế xăng dầu sẽ làm giảm khả năng chi tiêu cho phát triển và an sinh xã hội
Cần nghiên cứu hết sức cẩn trọng đề nghị giảm thuế xăng dầu. Ảnh TL

Về thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN), Nghị định số 57/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2020 của Chính phủ quy định mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với mặt hàng xăng là 20%; đối với mặt hàng dầu diezen, madút, dầu hỏa và nhiên liệu bay là 7%.

Trả lời TBTCVN, ông Trương Bá Tuấn - Phó Vụ trưởng Chính sách Thuế (Bộ Tài chính) cho biết: Bộ Tài chính đang phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành có liên quan theo dõi sát sao diễn biến giá xăng dầu trên thị trường trong nước và thế giới để nghiên cứu, tham mưu, báo cáo cấp có thẩm quyền về các chính sách có liên quan, đảm bảo phù hợp với bối cảnh và thực tiễn hiện nay.

Về thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt (FTA), mặt hàng xăng (bao gồm cả E5, E10) có mức thuế nhập khẩu FTA theo Hiệp định ATIGA, Hiệp định VKFTA là 8%, Hiệp định VNEAEU là 8,8% - 8% và Hiệp định ACFTA là 20%; các mặt hàng dầu diezen, madút, dầu hỏa và nhiên liệu bay có mức thuế nhập khẩu FTA theo Hiệp định VNEAEU là 7%, theo Hiệp định ATIGA và Hiệp định VKFTA là 0%.

Từ khi Nhà máy lọc hóa dầu Dung Quất và Nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn chính thức hoạt động, cung cấp xăng dầu cho thị trường trong nước thì lượng xăng dầu nhập khẩu giảm đáng kể. Quý III/2021 lượng xăng nhập khẩu chỉ chiếm 7,2% tổng lượng xăng tiêu thụ trong nước và dầu nhập khẩu chỉ chiếm 31,15%. Như vậy, lượng xăng sản xuất trong nước chiếm đến 92,8% tổng sản lượng xăng tiêu thụ của cả nước. Xăng dầu nhập khẩu hiện nay chủ yếu từ các nước ASEAN, Hàn Quốc với mức thuế nhập khấu FTA là 8% đối với xăng và 0% đối với dầu, đảm bảo phù hợp với cam kết quốc tế.

Với thuế GTGT, pháp luật thuế GTGT không có quy định giảm thuế, miễn thuế đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT mà chỉ quy định áp dụng thuế GTGT theo hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT với 3 mức thuế suất, trong đó quy định áp dụng mức thuế suất 0% đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu; mức thuế suất 5% đối với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ thiết yếu như nước sạch, sản phẩm nông nghiệp và mức thuế suất 10% đối với tất cả các hàng hóa, dịch vụ chịu thuế còn lại, trong đó có mặt hàng xăng dầu. Việc quy định mức thuế suất thuế GTGT thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội.

Tương tự thuế GTGT, pháp luật thuế TTĐB không có quy định giảm thuế, miễn thuế đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB. Hiện hành, chỉ có mặt hàng xăng thuộc diện chịu thuế TTĐB với mức thuế suất là 10% (không thu thuế TTĐB đối với dầu các loại). Riêng xăng sinh học E5 có mức thuế suất thuế TTĐB là 8% và xăng E10 là 7%. Đây là mức trung bình thấp so với nhiều nước và việc quy định mức thuế suất thuế TTĐB thuộc thẩm quyền của Quôc hội.

Về thuế BVMT, Luật thuế BVMT số 57/2010/QH12 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2012 đã quy định cụ thể đối tượng chịu thuế và khung thuế BVMT đối với mặt hàng xăng dầu. Căn cứ khung thuế BVMT này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quy định mức thuế BVMT đối với các mặt hàng xăng dầu như sau: xăng (trừ etanol): 4.000 đồng/lít; dầu diezel, dầu mazut và mỡ nhờn: 2.000 đồng/lít; nhiên liệu bay là 3.000 đồng/lít. Đối với các mặt hàng xăng sinh học (như xăng E5, E10- chứa 5%, 10% etanol) thì chỉ tính thuế BVMT đối với lượng xăng gốc hóa thạch kết cấu trong xăng sinh học.

Mức thuế BVMT hiện hành cơ bản phù hợp với nguyên tắc xây dựng mức thuế BVMT quy định tại Luật thuế BVMT. Việc sử dụng thuế BVMT với mục tiêu bình ổn giá cũng không thực sự phù hợp với bản chất của sắc thuế này, vì thuế BVMT là công cụ chính sách nhằm thu vào các sản phẩm gây tác động xấu đối với môi trường khi sử dụng.

Càng giảm thuế xăng dầu nhiều, những người có thu nhập cao càng được hỗ trợ nhiều hơn, người có thu nhập thấp được hỗ trợ ít hơn

Theo chuyên gia kinh tế, TS. Đinh Trọng Thịnh, giá xăng dầu tăng cao sẽ có ảnh hưởng nhất định đến giá cả của một số hàng hoá và mặt bằng giá cả trong nền kinh tế quốc dân. Trên thực tế, câu chuyện giá xăng dầu tăng khi nền kinh tế thế giới phục hồi và phát triển sau đại dịch Covid-19 đã nằm trong dự tính của các nhà kinh tế.

“Trước sự tăng giá của giá xăng dầu, đã có những đề xuất về miễn giảm các loại thuế với xăng dầu. Đây là một đề xuất cần được xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng. Hạ thấp thuế đối với xăng dầu tạo sự không công bằng cho người sử dụng, khoét sâu hố ngăn cách giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Chỉ những người có thu nhập cao mới có điều kiện sử dụng các phương tiện hiện đại, tiêu tốn nhiều xăng dầu, còn những người lao động bình dân và lao động tự do, bán vé số, buôn thúng bán bưng sử dụng rất ít nhiên liệu xăng dầu. Càng giảm thuế xăng dầu nhiều, những người có thu nhập cao càng được hỗ trợ nhiều hơn, người có thu nhập thấp được hỗ trợ ít hơn” - TS. Đinh Trọng Thịnh phân tích.

Theo vị chuyên gia này, thuế đối với xăng dầu là chính sách dài hạn của Chính phủ để đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước (NSNN), đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường, giảm khí thải, đảm bảo sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguồn tài nguyên không thể tái tạo và điều tiết thu nhập trong nền kinh tế.

Giảm thuế xăng dầu sẽ làm giảm nguồn thu của NSNN, giảm các khả năng chi tiêu của Chính phủ cho các mục tiêu hồi phục và phát triển kinh tế, BVMT và hỗ trợ an sinh xã hội, giúp đỡ những nhóm lao động yếu thế trong xã hội.

Ông Đinh Trọng Thịnh cho rằng, vệc giảm thuế xăng dầu chỉ để nhằm hỗ trợ hồi phục kinh tế là một chính sách trong giai đoạn trước mắt của Chính phủ. Chính vì vậy, đề xuất giảm thuế xăng dầu cần thiết được nghiên cứu cẩn trọng để đề nghị Chính phủ, Quốc hội xem xét kỹ lưỡng./.

Giảm 50% thuế BVMT nhiên liệu bay, ngân sách giảm 1.440 tỷ đồng

Trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, để góp phần tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho ngành hàng không và trên cơ sở hiệu quả tích cực của việc thực hiện giải pháp giảm thuế bảo vệ môi trường (BVMT) đối với nhiên liệu bay từ 1/8/2020 đến nay, Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 13/2021/UBTVQHQH15 quy định giảm 50% mức thuế BVMT đối với nhiên liệu bay từ ngày 1/1/2022 đến hết ngày 31/12/2022.

Dự kiến số giảm thu thuế BVMT đối với nhiên liệu bay là khoảng 1.440 tỷ đồng, từ đó làm giảm thu ngân sách nhà nước (bao gồm thuế GTGT, thuế BVMT) là khoảng 1,6 nghìn tỷ đồng.

Trước đó, vào năm 2021, để hỗ trợ ngành hàng không, Chính phủ đã đề xuất Quốc hội giảm thuế BVMT với nhiên liệu bay với mức giảm 30%.