Sửa đổi luật để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới

Mới đây, Bộ Tài chính đã hoàn thiện và trình Chính phủ báo cáo, trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Dự án Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) theo trình tự, thủ tục rút gọn.

Theo Bộ Tài chính, Luật Dự trữ quốc gia được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2013. Sau gần 13 năm thực hiện, Luật Dự trữ quốc gia và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo khuôn khổ pháp lý căn bản để thực hiện các hoạt động dự trữ quốc gia.

Tuy nhiên, qua thực tiễn đã xuất hiện nhiều vướng mắc, bất cập cần phải giải quyết như: chưa quy định việc sử dụng hàng dự trữ quốc gia để đảm bảo an sinh xã hội, trong khi thực tế, việc cấp gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho học sinh, các hộ gia đình tham gia bảo vệ rừng vẫn đang được thực hiện; chưa đặt vấn đề sửa đổi toàn diện các quy định có những vướng mắc, bất cập về lĩnh vực dự trữ quốc gia.

Thay đổi tư duy chiến lược đối với dự trữ quốc gia
Cán bộ điểm kho ĐK1.KVI, Chi cục Dự trự Nhà nước khu vực I kiểm tra xuất gạo dự trữ quốc gia hỗ trợ học sinh, học viên trong kỳ I, năm học 2025 - 2026. Ảnh: Đức Thanh

Trong thời gian qua, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về tổ chức, sắp xếp lại bộ máy, thực hiện phân quyền, phân cấp và phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, một số luật mới được Quốc hội thông qua (Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đấu thầu, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật Thanh tra) và một số luật dự kiến trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 10 (Luật Quy hoạch, Luật Giá) có nội dung liên quan đến hoạt động dự trữ quốc gia.

Vì vậy, để tránh chồng chéo, mâu thuẫn, đảm bảo thống nhất, hiệu lực, hiệu quả trong quá trình thi hành, cần thiết phải rà soát tổng thể, nghiên cứu ban hành Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) thay thế luật hiện hành.

Thực hiện Kết luận số 115-KL/TW ngày 16/1/2025 của Bộ Chính trị và Thông báo số 342-TB/VPTW ngày 18/9/2025 về kết luận của Tổng Bí thư Tô Lâm, Chính phủ đã xây dựng dự thảo Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) để bổ sung mục tiêu “thực hiện dự trữ chiến lược để quản lý, khai thác, huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế; là công cụ điều tiết thị trường nhằm đảm bảo nền kinh tế vận hành ổn định, hiệu quả theo quy luật thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bộ Tài chính cho biết, xuất phát từ cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý và thực tiễn, việc xây dựng Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) là rất cần thiết, cấp bách để thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần quan trọng trong việc khắc phục những hạn chế, bất cập hiện nay và đáp ứng yêu cầu đặt ra đối với lĩnh vực dự trữ quốc gia trong tình hình mới.

Những điểm mới nổi bật

Dự thảo Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) gồm 6 chương, 35 điều (giảm 31 điều so với luật hiện hành), thể hiện sự thay đổi về tư duy chiến lược đối với dự trữ quốc gia.

Nếu luật hiện hành chỉ tập trung vào nhiệm vụ đột xuất, cấp bách (phòng, chống thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, cứu đói; phục vụ quốc phòng, an ninh), thì dự thảo Luật đã bổ sung rõ mục tiêu dự trữ quốc gia còn là để đảm bảo an sinh xã hội và phát triển kinh tế - xã hội. Việc mở rộng này cho phép Nhà nước sử dụng hàng dự trữ quốc gia một cách linh hoạt hơn, không chỉ trong tình huống khẩn cấp, mà còn để điều tiết thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt tại các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Quan điểm xây dựng Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) là tập trung sửa đổi, bổ sung để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ giữa các quy định của pháp luật, giải quyết những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn và thực hiện phân quyền, phân cấp triệt để cho các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền.

Dự thảo đã bổ sung một chương hoàn toàn mới, quy định về “Dự trữ chiến lược”, nhằm củng cố năng lực quốc gia trong việc đối phó với các tình huống bất thường. Dự trữ chiến lược được định nghĩa là công cụ để quản lý, khai thác, huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế, nhằm đảm bảo nền kinh tế vận hành ổn định, hiệu quả theo quy luật thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đặc biệt, dự thảo Luật đã phân quyền, phân cấp triệt để theo hướng: quy định các tiêu chí về danh mục hàng dự trữ quốc gia đảm bảo các mặt hàng dự trữ quốc gia là mặt hàng chiến lược, thiết yếu, có tần suất sử dụng nhiều, có tác dụng ứng phó kịp thời trong tình huống đột xuất, cấp bách; đặc chủng, không thể thay thế; vật tư, thiết bị, hàng hóa bảo đảm quốc phòng, an ninh và giao Chính phủ quy định danh mục hàng dự trữ quốc gia; các bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia quy định chi tiết mặt hàng dự trữ quốc gia.

Bên cạnh đó, dự thảo Luật phân cấp cho Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ (nội dung này đã được quy định tại Nghị định số 126/2025/NĐ-CP, nay cần luật hóa quy định này để bảo đảm thống nhất theo quy định tại Nghị quyết số 190/2025/QH15 của Quốc hội) quyết định và đã phân định rõ thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tài chính (quản lý nhà nước về dự trữ quốc gia) với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Bên cạnh đó, dự thảo Luật nêu rõ, Chính phủ quy định chi tiết nội dung này và quy định nội dung, trình tự quyết định nhập, xuất hàng dự trữ quốc gia.

Để khắc phục khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện Luật Dự trữ quốc gia năm 2012 và phù hợp với phân quyền, phân cấp quản lý, dự thảo Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) bỏ quy định hàng dự trữ quốc gia phải được cất giữ riêng, sửa đổi cụm từ “quy chuẩn kỹ thuật quốc gia” thành “quy định về bảo quản hàng dự trữ quốc gia”

Quy định về thuê bảo quản hàng dự trữ quốc gia (Điều 24) được rà soát, thay đổi quy định từ “Điều kiện cơ sở phải đáp ứng” thành bộ, cơ quan ngang bộ thuê tổ chức, doanh nghiệp để bảo quản (thay đổi về điều kiện đầu tư kinh doanh), không yêu cầu phải được chứng nhận đủ điều kiện theo thủ tục hành chính, không phải là điều kiện đầu tư kinh doanh; bảo đảm đơn giản hóa thủ tục và tạo thuận lợi khi thực thi.

Đồng thời, để bảo đảm thống nhất với Luật Quy hoạch đang được sửa đổi, dự kiến trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 10, dự thảo Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) quy định về quy hoạch tổng thể hệ thống kho dự trữ quốc gia trên cơ sở kế thừa Điều 58 Luật Dự trữ quốc gia năm 2012 và không quy định quy hoạch chi tiết mạng lưới kho dự trữ quốc gia.

Ngoài ra, tiến hành rà soát, bổ sung quy định về nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong lĩnh vực dự trữ quốc gia (Điều 30) để quy định về “xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về dự trữ quốc gia theo hướng ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại và giao Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về cập nhật, khai thác quản lý hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về dự trữ quốc gia” để thể chế hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.