* PV: Bà đánh giá như thế nào về các quy định hiện hành liên quan đến việc niêm yết và đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam đối với doanh nghiệp FDI?
Bà Trần Thị Thành: Theo quy định của pháp luật cũng như chủ trương chung của Nhà nước, hiện nay không có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI. Các doanh nghiệp đều được tiếp cận thị trường chứng khoán trên cơ sở bình đẳng.
|
Trước hết, tôi đánh giá rất cao những nỗ lực của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) trong việc tổ chức chuyên đề về đăng ký giao dịch doanh nghiệp; IPO và niêm yết cho các doanh nghiệp FDI. Đây là hoạt động thiết thực nhằm triển khai chủ trương tại Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, bảo đảm nguyên tắc đối xử công bằng giữa doanh nghiệp khối công và tư.
Việc thúc đẩy đại chúng hóa, IPO và niêm yết đối với doanh nghiệp FDI không chỉ phù hợp với chủ trương này mà còn góp phần gia tăng nguồn hàng, đa dạng hóa sản phẩm cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
* PV: Theo bà, những “nút thắt” nào hiện nay cần được tháo gỡ để hỗ trợ doanh nghiệp FDI niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán một cách thuận lợi hơn?
Bà Trần Thị Thành: Như tôi đã đề cập, về mặt pháp lý, hệ thống quy định hiện hành không có sự phân biệt giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, trên thực tế, với vai trò là đơn vị tư vấn và là thành viên thị trường, chúng tôi nhận thấy doanh nghiệp FDI có những đặc thù riêng trong quá trình hoạt động tại Việt Nam.
Cụ thể, doanh nghiệp FDI khi đầu tư vào Việt Nam thường gắn với các cam kết và ưu đãi theo Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Do đó, khi thực hiện đại chúng hóa, IPO và niêm yết, vấn đề đặt ra là cần làm rõ mức độ thực hiện các cam kết đó, cũng như việc hưởng và thực hiện các ưu đãi đầu tư trong quá trình hoạt động.
Để bảo đảm nguyên tắc đối xử bình đẳng khi tham gia thị trường chứng khoán, doanh nghiệp FDI cần thể hiện rõ ràng việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và cam kết của mình. Đây là điểm mà các đơn vị tư vấn cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý, các tổ chức trung gian và chính bản thân doanh nghiệp FDI để làm rõ.
Mục tiêu cuối cùng là bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng trong công bố thông tin khi doanh nghiệp tham gia thị trường, qua đó tạo niềm tin cho nhà đầu tư đại chúng.
* PV: Vậy bà có đề xuất giải pháp gì để tháo gỡ những vướng mắc này?
Bà Trần Thị Thành: Tôi cho rằng, việc tháo gỡ cần có sự tham gia đồng bộ từ nhiều phía, bao gồm cơ quan quản lý, doanh nghiệp FDI và các đơn vị tư vấn. Về phía doanh nghiệp FDI, cần rà soát lại toàn bộ các cam kết đầu tư, xác định rõ các quyền lợi, ưu đãi đã được hưởng và mức độ thực hiện nghĩa vụ tương ứng.
Với vai trò là đơn vị tư vấn, chúng tôi sẽ đồng hành cùng doanh nghiệp trong việc rà soát, chuẩn bị hồ sơ, làm rõ các cam kết, ưu đãi của DN FDI và minh bạch hóa toàn bộ thông tin. IPO và trở thành công ty đại chúng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải đáp ứng các chuẩn mực cao hơn về quản trị doanh nghiệp và công bố thông tin.
Khi thông tin được công khai, minh bạch, nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, sẽ có cơ sở để đưa ra quyết định. Điều này không chỉ giúp thu hút dòng vốn chất lượng mà còn góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững của thị trường chứng khoán Việt Nam, qua đó nâng cao uy tín của thị trường chứng khoán Việt Nam trong mắt nhà đầu tư quốc tế.
* PV: Ngoài vấn đề cam kết đầu tư, theo bà còn những yếu tố nào khác ảnh hưởng đến việc doanh nghiệp FDI tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam?
Bà Trần Thị Thành: Trong bối cảnh Chính phủ đang thể hiện rõ tinh thần cởi mở, tháo gỡ khó khăn và đồng hành cùng thị trường, doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước đều hoạt động trên cơ sở tuân thủ Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, không có sự phân biệt đối xử.
![]() |
| Thị trường chứng khoán chờ đón nguồn hàng chất lượng từ doanh nghiệp FDI. Ảnh: T.L |
Tuy nhiên, một vấn đề cần lưu ý là doanh nghiệp FDI cần chủ động rà soát, hoàn thiện hồ sơ pháp lý, bảo đảm tính công bằng, minh bạch và công khai, đồng thời thể hiện rõ việc thực hiện các cam kết đầu tư tại Việt Nam.
Việc này có ý nghĩa quan trọng, bởi khi doanh nghiệp lựa chọn đại chúng hóa và IPO, họ cần khẳng định cam kết gắn bó lâu dài với thị trường Việt Nam. Sự rõ ràng, minh bạch sẽ giúp giảm bớt lo ngại của nhà đầu tư, tránh những quan ngại về khả năng rút vốn, qua đó củng cố niềm tin vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
PV: Bà kỳ vọng như thế nào về sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới, đặc biệt liên quan đến khả năng gia tăng số lượng doanh nghiệp FDI niêm yết?
Bà Trần Thị Thành: Trong thời gian qua, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được nhiều thành quả tích cực, với sự nỗ lực lớn từ cơ quan quản lý, đặc biệt là việc đưa hệ thống công nghệ KRX vào vận hành và đạt được bước tiến quan trọng trong quá trình nâng hạng thị trường.
Việc khuyến khích doanh nghiệp FDI niêm yết sẽ góp phần gia tăng nguồn cung hàng hóa, đa dạng hóa sản phẩm trên thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Đây là một trong các yếu tố rất quan trọng để thu hút nhà đầu tư nước ngoài, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang hướng tới mục tiêu nâng hạng thị trường.
Muốn thu hút dòng vốn quốc tế, thị trường cần có hàng hóa đa dạng, chất lượng cao. Do đó, việc tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp FDI không chỉ khẳng định mạnh mẽ chủ trương không phân biệt đối xử của Nhà nước, mà còn đáp ứng tốt hơn nhu cầu đầu tư của cả nhà đầu tư trong và ngoài nước.
PV: Khi khung pháp lý cho doanh nghiệp FDI đã dần hoàn thiện, theo bà doanh nghiệp cần thực hiện những bước gì để có thể tham gia thị trường nhanh nhất?
Bà Trần Thị Thành: Theo tôi, sau các chương trình tuyên truyền, hướng dẫn như buổi chuyên đề do UBCKNN tổ chức, doanh nghiệp FDI cần căn cứ vào nhu cầu và định hướng của mình để lựa chọn lộ trình phù hợp, từ đại chúng hóa; đăng ký giao dịch đến IPO và niêm yết...
Doanh nghiệp cần chuẩn bị hồ sơ đầy đủ theo đúng quy định pháp luật hiện hành. Việc rà soát kỹ lưỡng hồ sơ, phối hợp chặt chẽ giữa doanh nghiệp, đơn vị tư vấn và các cơ quan liên quan sẽ giúp quá trình xem xét, thẩm định diễn ra thuận lợi, bảo đảm hồ sơ được xử lý thông suốt và đúng quy định.
PV: Xin cảm ơn bà!
| Thống kê cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2003 đến 2017, thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ ghi nhận 11 doanh nghiệp FDI thực hiện niêm yết. Sau đó, một doanh nghiệp hủy niêm yết, đưa số lượng hiện tại xuống còn 10 doanh nghiệp. Nếu đặt trong tương quan với quy mô toàn thị trường khoảng 1.600 doanh nghiệp đang niêm yết và đăng ký giao dịch thì sự hiện diện của doanh nghiệp FDI là rất khiêm tốn. Tổng số cổ phiếu của nhóm này chỉ khoảng 1,2 tỷ đơn vị, chiếm xấp xỉ 0,17% quy mô thị trường. |



