Chuyển từ nhanh sang hiệu quả
Đầu tư công tiếp tục được kỳ vọng giữ vai trò trụ cột nhằm góp phần quan trọng đưa Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng trên 8% trong năm 2025 và hai con số trong những năm tiếp theo. Do vậy, bước sang năm 2026, yêu cầu đặt ra đối với đầu tư công là giải ngân đúng tiến độ và chất lượng, tạo được hiệu ứng lan tỏa thực chất đối với tăng trưởng.
Theo TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn - Giảng viên Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright, những vướng mắc của giải ngân đầu tư công là kết quả của nhiều điểm nghẽn đan xen. Từ khâu chuẩn bị dự án, cơ chế phân bổ vốn, năng lực thực thi cho đến cách phối hợp chính sách vĩ mô. Vì vậy, các giải pháp cho năm 2026 cần được thiết kế theo hướng tổng thể hơn.
![]() |
| TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn trình bày tham luận tại Toạ đàm: "Đầu tư công: Gỡ nút thắt để bứt phá tăng trưởng 2026". Ảnh: Văn Dũng |
Trước hết, chất lượng chuẩn bị đầu tư phải được coi là điều kiện tiên quyết của giải ngân. Bởi thực tế cho thấy, nhiều dự án chậm tiến độ không phải vì thiếu tiền, mà vì vướng thiết kế, dự toán, hồ sơ pháp lý hoặc giải phóng mặt bằng. Do đó, cần tách bạch rõ giai đoạn chuẩn bị và giai đoạn thực hiện, chỉ bố trí vốn lớn cho những dự án đã hoàn tất đầy đủ thủ tục và có khả năng giải ngân thực tế trong năm.
Bên cạnh đó, kế hoạch vốn cần được điều hành linh hoạt hơn trong năm, thay vì “đóng cứng” ngay từ đầu. Việc cho phép điều chuyển vốn kịp thời sang các dự án, địa phương có tiến độ tốt sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và cải thiện tỷ lệ giải ngân chung. Tuy nhiên, cơ chế điều chỉnh cần dựa trên tiêu chí minh bạch, gắn với tiến độ thực tế, tránh cơ chế xin - cho hay can thiệp hành chính tùy tiện.
Một điểm then chốt khác là nâng cao trách nhiệm và năng lực của chủ đầu tư và ban quản lý dự án. Thực tế cho thấy không ít vướng mắc phát sinh từ năng lực tổ chức thực hiện yếu, thiếu chủ động phối hợp và xử lý chậm các vấn đề tại hiện trường. Vì vậy, cần tăng cường phân cấp đi đôi với trách nhiệm giải trình, đồng thời chuyên nghiệp hóa đội ngũ quản lý dự án, nhất là với các dự án hạ tầng quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp và có tác động lan tỏa cao.
TS. Tuấn cũng nhấn mạnh việc tháo gỡ có trọng tâm các nút thắt “kinh điển” như đất đai, giải phóng mặt bằng và vật liệu xây dựng. Thay vì xử lý manh mún từng dự án, cần tiếp cận theo vùng và theo chuỗi, từ quy hoạch mỏ vật liệu, cơ chế xác định giá bồi thường đến sự phối hợp giữa các cấp chính quyền.
Đặc biệt, giải ngân đầu tư công cần được đặt trong mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ và các công cụ vĩ mô khác. Trong bối cảnh chính sách tiền tệ phải “gánh” nhiều mục tiêu, đầu tư công cần đóng vai trò điểm tựa cho tổng cầu nhưng không gây áp lực lạm phát hay mất cân đối vĩ mô. Điều này đòi hỏi phân bổ giải ngân đều hơn trong năm, tránh dồn vào cuối kỳ.
Quan trọng hơn, cần chuyển trọng tâm đánh giá từ tỷ lệ giải ngân sang hiệu quả và tác động của dự án. Bởi việc quá chú trọng con số giải ngân có thể dẫn tới lựa chọn dự án kém hiệu quả hoặc đẩy nhanh tiến độ bằng mọi giá. Ngược lại, khi giải ngân gắn với các mục tiêu đầu ra cụ thể như cải thiện hạ tầng chiến lược, giảm chi phí logistics, nâng cao năng lực sản xuất hay thu hút đầu tư tư nhân, đầu tư công mới thực sự trở thành công cụ thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
Hướng đến trung và dài hạn
Ở góc nhìn dài hạn, TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn cho rằng, đầu tư công tại Việt Nam thường phát huy tác động rõ nét hơn trong trung hạn, khi các công trình hoàn thành và đi vào khai thác. Vì vậy, điều hành đầu tư công không nên chỉ xoay quanh chỉ tiêu giải ngân hằng năm, mà cần hướng tới hiệu quả của toàn bộ vòng đời dự án, từ lựa chọn, triển khai đến vận hành và bảo trì.
![]() |
| Tình hình giải ngân đầu tư công hàng tháng các năm 2021 - 2025. |
Một ưu tiên quan trọng là chuyển từ quy hoạch “bao trùm” sang ưu tiên hóa thực chất. Dù hệ thống quy hoạch và chiến lược phát triển đã khá đầy đủ, nhưng vẫn tồn tại khoảng cách lớn giữa quy hoạch và khả năng triển khai. Danh mục đầu tư công trung hạn cần phản ánh đúng nguồn lực và năng lực thực thi, thay vì chỉ là tập hợp các đề xuất mong muốn.
Đối với các dự án liên vùng, liên địa phương và các dự án hạ tầng mạng lưới, cần thiết lập cơ chế điều phối đủ mạnh để thống nhất tiến độ, tiêu chuẩn kỹ thuật và các khâu liên quan như giải phóng mặt bằng, tái định cư, di dời hạ tầng kỹ thuật. Cùng với đó, kỷ luật kế hoạch đầu tư công trung hạn cần được củng cố. Việc điều chỉnh danh mục và phân bổ vốn liên tục trong năm làm suy yếu tính ổn định của kế hoạch.
Theo ông Tuấn, chất lượng đánh giá và lựa chọn dự án cũng cần được nâng lên, tập trung vào hiệu quả kinh tế – xã hội thực chất thay vì chỉ hoàn thiện hồ sơ. Các rủi ro then chốt như giải phóng mặt bằng, tác động môi trường – xã hội và năng lực thực thi cần được đưa vào quá trình ra quyết định ngay từ đầu, đặc biệt với các dự án liên vùng.
Với các dự án PPP, Nhà nước cần chuẩn bị đầy đủ “đầu vào” trước khi kêu gọi khu vực tư nhân, từ mặt bằng, phần hỗ trợ tài chính cho dự án khó thu hồi vốn đến cơ chế chia sẻ rủi ro ổn định. Đồng thời, năng lực quản lý hợp đồng trong suốt vòng đời dự án phải được nâng cao để bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước và nhà đầu tư.
Ngoài ra, giải phóng mặt bằng và tái định cư tiếp tục là khâu then chốt quyết định tiến độ. Việc chuẩn bị quỹ đất, phương án tái định cư và chính sách bồi thường minh bạch cần được thực hiện từ sớm, đặc biệt với các dự án lớn và dự án theo tuyến.
Tiếp đến là hoàn thiện công tác đấu thầu, quản lý hợp đồng theo hướng phân bổ rủi ro hợp lý, cải thiện quản lý dòng tiền và giải ngân, bảo đảm vốn được thanh toán kịp thời theo tiến độ thực tế. Đối với các dự án ODA, vốn đối ứng cần được coi là điều kiện tiên quyết để tránh chậm trễ.
“Đầu tư công chỉ thực sự hiệu quả khi các công trình được vận hành và bảo trì đầy đủ. Do đó, chi phí vận hành và bảo trì cần được tính đúng, tính đủ ngay từ giai đoạn lập dự án, gắn với hệ thống quản lý tài sản hạ tầng theo vòng đời. Song song với đó là tăng cường quản lý rủi ro tài khóa và thiết lập cơ chế đánh giá sau dự án như một yêu cầu bắt buộc, nhằm rút ra bài học thực tiễn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công theo thời gian” - TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn chia sẻ.
| Theo Bộ Tài chính, tính đến hết ngày 25/12/2025, tổng vốn đầu tư công giải ngân thực tế đạt 635.624,3 tỷ đồng, tương đương 69,6% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. Nếu loại trừ phần vốn giao bổ sung sau ngày 30/9/2025 và vốn theo Nghị quyết số 57-NQ/TW, tỷ lệ giải ngân thực tế đạt khoảng 71,8%. |


