Hoàn thiện khung pháp lý về công nghệ chỉnh sửa gen

Phát biểu tại Diễn đàn “Chỉnh sửa gen trong nông nghiệp - Công nghệ chiến lược gắn với khung pháp lý” do Báo Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Vụ Khoa học và Công nghệ, Vụ Pháp chế (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức ngày 18/10, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, công nghệ sinh học không phải câu chuyện mới, mà được xác định từ lâu là một hướng đột phá chiến lược.

Lĩnh vực này bao gồm nhiều mảng quan trọng như thao tác gen, nuôi cấy mô - phôi và phát triển sinh vật có ích. Đặc biệt, công nghệ gen đã mang lại nhiều kết quả nổi bật, góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo định hướng hữu cơ, tuần hoàn và đổi mới sáng tạo, phù hợp với Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030 theo Quyết định số 569/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Hài hòa phát triển công nghệ mũi nhọn với bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến phát biểu tại diễn đàn.
Trong khuôn khổ diễn đàn, với chủ đề hài hòa phát triển công nghệ mũi nhọn (trong đó có chỉnh sửa gen) với bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học, đã diễn ra Tọa đàm "Hoàn thiện khung pháp lý và thúc đẩy hợp tác công - tư trong nghiên cứu ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen tại Việt Nam".

Nhờ ứng dụng công nghệ gen, Việt Nam đã tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi có năng suất và chất lượng cao, kháng sâu bệnh tốt, thích nghi với điều kiện thời tiết bất thuận và phù hợp với định hướng phát triển nông nghiệp thông minh, ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong ngành nông nghiệp, Việt Nam có 85% giống lúa mới, 89% gạo chất lượng cao, riêng trong 9 tháng năm nay, sản lượng lúa đạt 34,8 triệu tấn, một con số ấn tượng, vừa đảm bảo an ninh lương thực trong nước, vừa khẳng định vị thế Việt Nam trên thị trường lương thực quốc tế.

Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh, nguồn lực và chủ trương đã có, việc hoàn thiện khung pháp lý là điều kiện tiên quyết để khoa học công nghệ phát huy hiệu quả.

TS. Nguyễn Văn Long - Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, xu hướng toàn cầu về quản lý cây trồng chỉnh sửa gen đang chuyển dịch theo hướng khuyến khích đổi mới, đảm bảo an toàn và minh bạch trong thương mại nông nghiệp. Nhiều quốc gia, đặc biệt ở châu Á, đang hoàn thiện khung pháp lý để tận dụng lợi ích của công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.

Cùng với đó, nhiều nước áp dụng quan điểm cởi mở, coi công nghệ chỉnh sửa gen là công cụ quan trọng cho nông nghiệp bền vững. Việc đánh giá sản phẩm ngày càng dựa trên đặc tính của cây trồng cuối cùng thay vì quy trình công nghệ tạo ra nó, nhất là với các sản phẩm không chứa DNA ngoại lai.

Theo TS. Nguyễn Văn Long, tại Việt Nam, Đảng và Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo quan trọng nhằm thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng và quản lý an toàn sinh vật biến đổi gen. Luật Đa dạng sinh học năm 2008 đã đưa ra khái niệm về sinh vật biến đổi gen và quy định khung pháp lý cơ bản cho quản lý GMO. Tuy nhiên, đối với công nghệ chỉnh sửa gen, hệ thống pháp lý hiện vẫn chưa hoàn thiện.

Công tác truyền thông khoa học còn hạn chế khiến xã hội vẫn có tâm lý dè dặt với các sản phẩm biến đổi và chỉnh sửa gen, trong khi mối liên kết giữa nghiên cứu - doanh nghiệp - sản xuất chưa thật sự hiệu quả.

Để tháo gỡ, Việt Nam đang xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Đa dạng sinh học 2008 để cập nhật khái niệm và quy định về chỉnh sửa gen, đồng thời xây dựng cơ chế quản lý và thương mại phù hợp với xu thế toàn cầu. Việc hoàn thiện khung pháp lý này đòi hỏi thời gian, sự phối hợp giữa các bộ, ngành, nhà khoa học và doanh nghiệp, cùng cam kết mạnh mẽ từ các nhà hoạch định chính sách.

Đẩy mạnh hợp tác công tư

Để hoàn thiện khung pháp lý, theo ông Trần Mạnh Báo - Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn ThaiBinh Seed, cần xây dựng khung pháp lý trước, sau đó mới phát triển hệ thống nghiên cứu và triển khai ứng dụng. Đồng thời, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, nhà khoa học và doanh nghiệp để tạo hệ sinh thái hỗ trợ hiệu quả. Cuối cùng là đầu tư nguồn lực, kinh phí đầy đủ cho các hoạt động nghiên cứu, phát triển và triển khai các công cụ, công nghệ mới.

Hài hòa phát triển công nghệ mũi nhọn với bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học

TS. Trần Minh Thu - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Vinaseed khẳng định, đây là "thời điểm vàng" để Việt Nam nghiên cứu, ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen. "Chúng ta cần sớm xây dựng khung pháp lý cụ thể về chỉnh sửa gen, dựa trên kinh nghiệm từ các quốc gia khác như Australia, Mỹ và Singapore. Đồng thời, đẩy mạnh mô hình hợp tác công - tư, trong đó doanh nghiệp phối hợp với các viện nghiên cứu các giống mới để giảm gánh nặng ngân sách, phù hợp với nhu cầu thị trường, góp phần nâng cao thu nhập cho nông dân và thúc đẩy nông nghiệp bền vững" - bà Thu nói.

Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Vinaseed dẫn chứng, Công ty Bayer, với doanh thu hàng chục tỷ USD mỗi năm, luôn dành khoảng 5% để phục vụ công tác nghiên cứu và phát triển (R&D). Nhiều doanh nghiệp Hoa Kỳ ưu tiên thời gian nghiên cứu giống mới đến hàng chục năm...

Đề cập vấn đề pháp lý, bà Nguyễn Thị Thanh Thủy - nguyên Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng, Việt Nam đang có nền tảng pháp lý tương đối đầy đủ và hài hòa với quốc tế về an toàn sinh học đối với công nghệ sinh học nói chung và cây trồng biến đổi gen nói riêng. Tuy nhiên, trong bối cảnh công nghệ chỉnh sửa gen phát triển mạnh mẽ, khung pháp lý hiện nay cần được cập nhật để phù hợp với thực tiễn mới.

Bà Thủy chia sẻ, Cục Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) - đơn vị đầu mối được giao hoàn thiện quy định mới, đang chịu áp lực lớn khi phải hoàn thiện văn bản trong bối cảnh công nghệ thay đổi từng ngày, còn yêu cầu quản lý phải vừa kịp thời vừa chính xác.

Bà Thủy nhấn mạnh, mục tiêu cốt lõi của khung pháp lý là tạo được sự cân bằng giữa 3 yếu tố: thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm an toàn sinh học và bảo tồn đa dạng sinh học, đồng thời hài hòa với các cam kết quốc tế. Để đạt được điều này, hệ thống pháp luật cần minh bạch, rõ ràng và thống nhất, trước hết phải định nghĩa chính xác các khái niệm “biến đổi gen (GMO)” và “chỉnh sửa gen (GE)”.

"Công nghệ chỉnh sửa gen được xem là một trong những đột phá quan trọng nhất của thế kỷ XXI, mở ra hướng giải quyết hiệu quả cho nhiều vấn đề toàn cầu về y tế, môi trường và an ninh lương thực. Cây trồng chỉnh sửa gen được xem là giải pháp hiệu quả thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững, giải quyết nhiều thách thức từ biến đổi khí hậu với nhiều lợi ích mang lại cho nông dân, người tiêu dùng và môi trường; giúp cây trồng thích ứng với điều kiện thời tiết bất luận, tăng sản lượng và chất lượng cây trồng; từ đó cải thiện sinh kế và chất lượng cuộc sống cho nông dân; mang lại nguồn thực phẩm dinh dưỡng, an toàn với chất lượng tốt hơn và tiết kiệm nguyên liệu đầu vào (đất, nước, vật tư nông nghiệp), bảo tồn tài nguyên và bảo vệ môi trường".

- GS.TS. Lê Huy Hàm - Chủ nhiệm Chương trình
Khoa học và Công nghệ cấp quốc gia về công nghệ sinh học