định hướng đối với Việt Nam để làm cơ sở nghiên cứu sửa đổi Luật Quản lý nợ công trong thời gian tới.
Các tiêu chí quản lý nợ
|
Trong bài thuyết trình với chủ đề “Quản lý nợ công: Mục tiêu, phạm vi, phối hợp”, ông John Gardner, Trưởng đoàn chuyên gia IMF cho rằng, nợ chung của Chính phủ là nghĩa vụ tài chính của Chính phủ trung ương và của các chính quyền địa phương.
“Nợ công bao gồm các khoản bảo lãnh của Chính phủ mà không trả được nợ, Chính phủ phải trả thay”, ông John Gardner nêu rõ.
Theo ông John Gardner, quản lý nợ công hiệu quả, nghĩa là các chỉ số cụ thể của toàn bộ danh mục nợ có thể được kiểm soát, các chỉ số này bao gồm: Cơ cấu tiền tệ - nội/ngoại tệ; thời gian đáo hạn trung bình - quy mô nợ có thời gian đáo hạn dưới 1 năm; thời gian vay; cơ cấu các khoản vay có lãi suất cố định/thả nổi; các chỉ số khác (Ví dụ: khoản nợ có tương quan với lạm phát). Đây là thông số quan trọng vì chúng được sử dụng để kiểm soát rủi ro tài khóa trong danh mục nợ (như rủi ro tiền tệ, rủi ro thanh khoản/đảo nợ; rủi ro lãi suất; các rủi ro khác (như rủi ro lạm phát).
Ông John Gardner khuyến nghị, việc xây dựng chính sách về quản lý nợ công cần cân nhắc về tài khóa, về ngân sách.
Trước câu hỏi “Việc quản lý nợ có nên là yếu tố quyết định chính sách tài khóa?, ông John Gardner khẳng định là không, mà ngược lại, chính sách tài khóa sẽ quyết định quy mô nợ có thể chấp nhận được trong trung hạn.
Phân tích tính bền vững nợ công, ông Jonh Gardner cho rằng, các cơ quan hữu quan cần phối hợp phân tích kinh tế vĩ mô – cả đầu vào và đầu ra, nhằm so sánh kịch bản kinh tế thực tế để xác định mức đầu tư từ ngân sách phù hợp với trung hạn, yếu tố quyết định mức thâm hụt ngân sách ở mức có thể chấp nhận được. “Theo kinh nghiệm quốc tế, nhiệm vụ này thường được giao cho Vụ Ngân sách hoặc một đơn vị cố vấn độc lập cho Bộ trưởng Bộ Tài chính”, ông nói.
Để phân tích tính bền vững nợ cần thông tin đầu vào về danh mục nợ nhằm theo dõi tỷ lệ nợ trong tương lai và các chiến lược nợ nhằm phân tích các kịch bản thực tế. Chiến lược nợ cần thông tin đầu vào là chính sách tài khóa.
Về việc quản lý ngân sách của Chính phủ có ảnh hưởng thế nào tới việc quản lý nợ - đặc biệt là ngân sách đầu tư cơ bản, ông John Gardner cho biết, theo kinh nghiệm quốc tế, cần xây dựng khuôn khổ chi tiêu có thể thực hiện được thông qua kế hoạch thu ngân sách và kế hoạch bù đắp thâm hụt ngân sách – phù hợp với chính sách quản lý tài khóa trung hạn đã được phê duyệt. Bù đắp ngân sách phải phù hợp với chiến lược quản lý nợ trung hạn.
Cần có một cơ quan quản lý nợ công độc lập
|
Trả lời cho câu hỏi, Việt Nam có cần hình thành một cơ quan quản lý nợ công độc lập không, ông Andrew Turner, chuyên gia IMF cho rằng nên có một cơ quan như vậy nhằm thể hiện tính rõ ràng và minh bạch trong quản lý nợ công (hoạt động của cơ quan này là bên trong - tập trung vào nhiệm vụ quản lý nợ, bên ngoài – tăng cường nhận thức của mọi người đối với mục tiêu của công tác quản lý nợ. Cơ quan này kết nối trách nhiệm giải trình và quản trị nhà nước).
Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về mô hình tổ chức của cơ quan quản lý nợ, ông Andrew Turner cho biết, trong 25 năm qua, các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã áp dụng một số mô hình thể chế khác nhau như: Cơ quan quản lý nợ thuộc Bộ Tài chính (Italia, Hy Lạp); cơ quan quản lý nợ là cơ quan độc lập trong Bộ Tài chính (Australia, New Zealand, Hà Lan, Anh, Bì, Pháp); cơ quan quản lý nợ thuộc Ngân hàng Trung ương (Đan Mạch), cơ quan quản lý nợ có quyền tự quyết cao, trực thuộc chính phủ (Thụy Đỉển, Áo, Bồ Đào Nha, Ai Len….)
Về vấn đề trên, ông Mike Williams, chuyên gia IMF chia sẻ, hiện ở Anh có nhiều mô hình quản lý nợ công khác nhau, nhưng nhìn chung, người đứng đầu cơ quan quản lý nợ là giám đốc điều hành, có trách nhiệm báo cáo tình hình quản lý nợ với Bộ trưởng Bộ Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương Anh hàng tháng.
Trung Kiên